Đề cương ôn tập Đường lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn liền với phát triển tri thức
+ Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá :
Đại hội Đảng lần thứ X cho rằng trong thời đại ngày nay khi khoa học công nghệ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn kinh tế tri thức có vai trò nổi bật trong phát triển lực lượng sản xuất , cách mạng khoa học công nghệ tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, xu thế và tác động của toàn cầu hoá tạo cơ hội và cũng là thách thức đối với đất nước .
Ta phải tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn lựa chọn con đường kết hiện đại hoá và công nghiệp hoá .
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển knh tế tri thức :
Đại hội Đảng lần thứ X cho rằng ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá khi nền kinh tế tri thức đang phát triển vì vậy không cần trải qua các bước tuần tự mà phải tranh thủ lợi thế của các nước đi sau để đẩy mạnh công nghiệp hoá gắn với phát kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hoá hiện đại hoá .
+ Kinh tế tri thức là :
“ Nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra , phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế , tạo ra của cải , nâng cao chất lượng cuộc sống”
Trong ngành kinh tế tri thức những ngành dựa nhiều vào tri thức , các thành tựu mới của khoa học , công nghệ có tác dụng to lớn tới sự phát triển nói chung :
Công nghệ thông tin , công nghệ sinh học , vật liệu mới, các ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp , công nghiệp , dịch vụ được úng dụng khoa học công nghệ cao .
File đính kèm:
- de_cuong_on_tap_duong_loi_cach_mang_dang_cong_san_viet_nam.docx
Nội dung text: Đề cương ôn tập Đường lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
- I. Phân tích những quan điểm của Đảng về Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa 1. Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa Công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn liền với phát triển tri thức + Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá : Đại hội Đảng lần thứ X cho rằng trong thời đại ngày nay khi khoa học công nghệ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn kinh tế tri thức có vai trò nổi bật trong phát triển lực lượng sản xuất , cách mạng khoa học công nghệ tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, xu thế và tác động của toàn cầu hoá tạo cơ hội và cũng là thách thức đối với đất nước . Ta phải tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn lựa chọn con đường kết hiện đại hoá và công nghiệp hoá . + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển knh tế tri thức : Đại hội Đảng lần thứ X cho rằng ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá khi nền kinh tế tri thức đang phát triển vì vậy không cần trải qua các bước tuần tự mà phải tranh thủ lợi thế của các nước đi sau để đẩy mạnh công nghiệp hoá gắn với phát kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hoá hiện đại hoá . + Kinh tế tri thức là : “ Nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra , phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế , tạo ra của cải , nâng cao chất lượng cuộc sống” Trong ngành kinh tế tri thức những ngành dựa nhiều vào tri thức , các thành tựu mới của khoa học , công nghệ có tác dụng to lớn tới sự phát triển nói chung : Công nghệ thông tin , công nghệ sinh học , vật liệu mới, các ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp , công nghiệp , dịch vụ được úng dụng khoa học công nghệ cao . 2. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế . • Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , nhiều thành phần kinh tế ,công nghiệp hoá hiện đại hoá không chỉ là công việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo . • Phương thức phân bố các nguồn lực để công nghiệp hoá được thực hiện bằng cơ chế thị trường. • Công nghiệp hoá hiện đại hoá khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế và sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đầu tư cho công nghiệp hoá trong cơ chế thị trường ở lĩnh vực qui mô nào , công nghệ gì cũng được cân nhắc, tính toán kỹ càng để tránh lãng phí kém hiệu quả . • Ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế tất yếu phải hội nhập , mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài thu hút công nghệ và học hỏi kinh nghiệm từ bên ngoài . Nó còn nhằm khai thác thị trường thế giới cho các hàng hoá của ta có lợi thế , có sức cạnh tranh . Đó cũng chính là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để công nghiệp hoá hiện đại hoá nhanh chống có hiệu quả hơn . 2
- II. Thực trạng của giáo dục Đại học tại Việt Nam hiện nay 1. Những con số biết nói 1.1. 235 trường đại học, 1,76 triệu sinh viên Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tính đến hết năm học 2016-2017, hệ thống hiện có 235 trường đại học, học viện (bao gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Đối với nhóm trường sư phạm và đào tạo giáo viên, hiện nay cả nước có 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng, 40 trường trung cấp có ngành đào tạo giáo viên (trong đó có 14 trường đại học sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm). Các trường ĐH Việt Nam phân bố theo vùng. Nguồn: Bô GD-ĐT. Năm học 2016-2017, có thêm 1 cơ sở đào tạo được thành lập mới trên cơ sở đã có quyết định chủ trương thành lập của Thủ tướng Chính phủ (Học viện dân tộc); 3 cơ sở đào tạo được cấp phép hoạt động và đều là các cơ sở có 100% vốn đầu tư nước ngoài (Trường ĐH Mỹ tại Việt Nam, Trường ĐH Y khoa Tokyo, Trường ĐH Fulbright Việt Nam), 1 phân hiệu của ĐHQG TP.HCM được thành lập tại Bến Tre. Về quy mô đào tạo, năm học 2016-2017, tổng quy mô sinh viên đại học 1.767.879 sinh viên, giữ ổn định so với năm học 2015-2016; quy mô sinh viên cao đẳng sư phạm giảm 14,3%, chỉ còn 47.800 sinh viên. Phần lớn sinh viên tập trung theo học các ngành thuộc Khối ngành V III: Toán và thống kê; Máy tính và công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ thuật; Kỹ thuật; Sản xuất chế biến; Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thuỷ sản; Thú y và Khối ngành: kinh doanh quản lý, pháp luật. 4
- Số lượng giảng viên phân theo trình độ chức danh. Số lượng giảng viên trong các trường cao đẳng sư phạm hiện này là 3.388 người trong đó giảng viên có trình độ Tiến sĩ là 115 người; Thạc sĩ là 2.187 người. Số lượng nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp đã được nghiệm thu năm 2016 là 274 nhiệm vụ. Các nhiệm vụ này đã thu hút gần 3.000 cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên tham gia, đào tạo được 312 thạc sĩ, hỗ trợ đào tạo 77 tiến sĩ, đã xuất bản 36 đầu sách tham khảo và chuyên khảo, công bố 594 bài báo khoa học trên các tạp chí trong nước và quốc tế được công bố, 115 sản phẩm ứng dụng là quy trình kỹ thuật, sản phẩm phục vụ sản xuất và đời sống, phát triển ngành và địa phương. Tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy – nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo, trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm giảng dạy – nghiên cứu nhất là: Trường ĐH Bách khoa Hà Nội (127 nhóm), tiếp đến là các trường: ĐH Tây Nguyên (42 nhóm), ĐH Đà Nẵng (36 nhóm), ĐH SP Kỹ thuật Hưng Yên (30 nhóm), ĐHQG TP. Hồ Chí Minh (24 nhóm), ĐHQG Hà Nội (23 nhóm). Đội ngũ giảng viên với trình độ cao tại đại học Bách Khoa , phục vụ cho việc giảng dạy đảm báo chất lượng cho việc cung cấp và nâng cao kiến thức chuyên ngành cho sinh viên học tập tại trường. Bộ GD-ĐT đánh giá, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và trình độ tiến sĩ trong toàn hệ thống vẫn ở mức thấp, đặc biệt là tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của các trường cao đẳng sư phạm còn quá thấp (chiếm khoảng 3,4%). Chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn còn là dấu hỏi lớn khi nhiều cán bộ giảng viên không có đề tài nghiên cứu, chưa có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế 6
- 4. Những tồn tại của giáo dục Đại học khối ngành kỹ thuật TPHCM a) Trình độ chuyên môn hạn chế Theo thống kê trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực Việt Nam: Lao động chuyên môn kỹ thuật cần được xem xét cả hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng: Đến 1/10/1999, toàn quốc có 5.241.700 lao động có chuyên môn kỹ thuật ( CMKT ) gồm các trình độ từ sơ cấp đến sau đại học, trong đó: trình độ lao động sơ cấp là 544.600 người, chiếm 1,45%;lao động có trình độ trung cấp là 1.516.400 người, chiếm 4.05%; lao động là công nhân kỹ thuật (CNKT) 1. 775. 900 người, chiếm, 75%;lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 3,1% (so với tổng lực lượng lao động thường xuyên). Lao động có CMKT có xu hướng tăng lên hàng năm, từ 1996-1999, tăng từ 4,4 lên 5,2 triệu, bình quân hàng năm tăng 5,9%, với mức tăng tuyệt đối khoảng 276.000 người. Số tăng thêm chủ yếu là lao động có trình độ cao đẳng-đại học (CĐ-ĐH) (chiếm 60%) và lao động trình độ CNKT (chiếm 24%). Sinh viên ra trường không xác định được công việc của mình , hoặc không tìm được việc làm theo chuyên ngành mình. 8
- khi thiếu đi sự liên kết với thực tế. Dẫn đến sinh viên kỹ thuật sau khi ra trường chỉ giỏi lý thuyết nhưng không thể đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng trên: nhà trường chưa nắm rõ những yêu cầu của các doanh nghiệp bên ngoài, thiếu sự liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp. Do sinh viên không tự chủ động tìm hiểu những yêu cầu của doanh nghiệp. Sinh viên chạy theo thành tích chỉ chăm chỉ học những môn học trên trường để lấy điểm mà không tìm hiểu thêm những kiến thức bên ngoài. Bên cạnh đó còn do sinh viên thụ động, lười học hỏi, chưa có định hướng tương lai. Một thực trạng đáng buồn của sinh viên hiện nay đó là học đối phó để qua môn, không thực sự thích ngành học của mình. Thiếu sự đầu tư và đam mê vào ngành học nên chưa có sự tìm tòi, học hỏi những kiến thức cần thiết cho công việc sau này. b) Thiếu kỹ năng mềm Kỹ năng mềm là khái niệm để chỉ tập hợp các khả năng liên quan đến trí tuệ cảm xúc được sử dụng hằng ngày trong cuộc sống như : kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng quản lý thời gian, làm việc nhóm, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới. Kỹ năng mềm có thể học tập và trau dồi được. Việc sinh viên còn thiếu kỹ năng mềm khi xin việc được thể hiện ngay ở việc không viết được một CV xin việc hoàn thiện, hay việc dùng những từ ngữ không phù hợp với ngữ cảnh của buổi phỏng vấn tuyển dụng, hoặc trong ngày phỏng vấn ăn mặc gây phản cảm với môi trường làm việc của doanh nghiệp Doanh nghiệp chỉ dành một phần nhỏ, khoảng 25% quan tâm đến bằng cấp, trường học của ứng viên. Họ chú trọng đến khả năng giao tiếp và thái độ của ứng viên đó như thế nào, nhưng xử sự trong các mối quan hệ của sinh viên ra trường hiện nay rất yếu. Chia sẻ của ông Trần Anh Tuấn- phó Giám đốc Trung tâm dự báo nhu cầu nguồn nhân lực Tp.HCM tại hộ thảo Góc quay thời cuộc với chủ đề “ Tìm việc thời cạnh tranh” do trường Đại học Kinh tế tp.HCM tổ chức diễn ra vào tối 29/9/2016 thu hút 1000SV tham dự. Theo chuyên gia này, kỹ năng mềm là cư xử biết người thông qua giao tiếp để hiểu nhau mới có thể làm việc hiệu quả. SV giao tiếp kém trong giao tiếp thể hiện qua văn bản như hồ sơ xin việc, qua trò chuyện trong phỏng vấn và trong cuộc sống, công việc hằng ngày với người xung quanh. Tuy nhiên một thực trạng đáng buồn là sinh viên hiện nay kỹ năng mềm còn quá kém, kỹ năng trong các văn bản hay nói chuyện, làm việc nhóm với đồng nghiệp còn yếu. Dẫn đến mất cơ hội nghề nghiệp mặc dù có kỹ năng làm việc tốt. Nguyên nhân của thực trạng trên: _Phần lớn sinh viên còn thụ động, chưa tích cực trong việc học hỏi kinh nghiệm xã hội Bởi lẽ, trong quá trình học tập, sinh viên chỉ chú trọng học kiến thức chuyên ngành mình học, hay với tâm lý mặc định là học để lấy điểm cao, học một biết một, trong khi đó, thiếu tính sáng tạo không chủ động học thêm, tìm hiểu thêm những vấn đề xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Chưa tích cực hoàn thiện thêm những yêu cầu của môi trường làm việc sau này. Thiếu kinh nghiệm thực tế, hạn chế giao tiếp trước đám đông, hạn chế về ngoại ngữ trong thời buổi hội nhập kinh tế hiện nay.Do sinh viên thụ động, lười biếng tham gia các hoạt động đoàn thể, các phong trào tập thể để giao lưu, học hỏi với những 10
- d) Thiếu tác phong công nghiệp Với các nước phát triển, tuân thủ giờ giấc theo đúng luật định là một trong những nguyên tắc cơ bản, tiên quyết để đưa doanh nghiệp đi đến thành công, và nếu ở phương diện cá nhân thì đó là yếu tố đầu tiên để nhà tuyển dụng chọn lựa. Không đảm bảo yếu tố này coi như tự loại mình ra khỏi vòng xoáy nghiệt ngã của thời đại công nghiệp. Việt Nam đặt mục tiêu năm 2020 sẽ là một nước công nghiệp, nhưng điều này đang bị coi nhẹ Khái niệm “tác phong công nghiệp” dường như vẫn xa lạ với số đông người Việt. Sự chậm chạp và lề mề trong công việc vốn đã trở thành vết hằn ăn sâu vào máu thịt của từng người.Đôi khi không vì một lý do gì thực sự chính đáng cả, mà xuất phát từ suy nghĩ đơn giản “muộn tí không sao”, dẫn đến ý thức tổ chức tổ chức kỷ luật, chấp hành giờ giấc làm việc chưa cao, thiếu nghiêm túc, chưa phân bổ được thời gian hợp lý. Chính những điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh người lao động Việt Nam. Vậy tác phong là gì? Tác phong được hiểu là sản phẩm nhận thức và tư duy khoa học của con người, phản ánh hành vi ứng xử của con người với công việc và trong giao tiếp xã hội. Hay nói cách khác, tác phong là lề lối, cách thức, phong thái đã trở thành nền nếp ổn định của con người. Nó được thể hiện rất rõ trong tất cả các hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên những nét riêng biệt của một chủ thể Tác phong là cách thức, lối làm việc và cách sống riêng của mỗi một con người. Tác phong không phải là tự sinh ra là có, mà nó được hình thành và phải trải qua một quá trình nhận thức, được rèn luyện lâu dài trong môi trường xã hội. Tác phong công nghiệp là gì? Nếu như bạn hiểu được 2 từ “ tác phong” rồi thì việc hiểu 4 từ “ tác phong công nghiệp” không phải khó. Từ những nhận xét trên, bạn có thể hiểu khái niệm “tác phong công nghiệp” là một bộ phận trong tác phong của con người, nó thể hiện ở cách thức, lề lối tiến hành và giải quyết công việc của một con người cụ thể ứng dụng trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay. Mỗi người có những tác phong riêng khác biệt, nhưng cũng cần phải lấy những điểm nòng cốt làm nền. Không được học những tác phong xấu và mang lại nhiều ảnh hưởng không tốt đến những người khác xung quanh. Có thể nhận thấy những vấn đề đặt ra đối với giáo dục tác phong công nghiệp đó là mâu thuẫn giữa thói quen nông nghiệp với yêu cầu cao của tác phong công nghiệp; mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng cao về giáo dục tác phong công nghiệp với sự hạn chế về chủ thể, nguồn lực giáo dục; mâu thuẫn giữa yêu cầu phải nâng cao ý thức tự giác, tính kỷ luật cao trong hoạt động doanh nghiệp với thực trạng hạn chế về nhận thức, ý thức của công nhân. Nguyên nhân của thực trạng trên đó là do lối sống của người Việt Nam đã ăn sâu và thói quen hằng ngày, do thiếu trách nhiệm trong công việc và nhiều người không có khả năng quản lý thời gian hợp lý. 12
- III. Giải pháp trong việc phát triển Giáo dục Đại học ở Việt Nam: 1. Giải pháp chung: - Cùng với quá trình đổi mới đất nước nói chung, đổi mới nền giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục đại học, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”(9). Ngày 04-11-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó nêu chín giải pháp đổi mới giáo dục toàn diện. Từ chín giải pháp mang tính định hướng trên đây, xin đề xuất một số khuyến nghị nhằm tiếp tục đổi mới hơn nữa giáo dục đại học Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. - Thứ nhất, xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mỗi trường đại học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có triết lý giáo dục riêng phù hợp với tôn chỉ, mục đích và hướng tới hội nhập vào dòng chảy phát triển chung của giáo dục quốc tế. - Thứ hai, việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở khu vực”(10) như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng khẳng định. Các cấp, các ngành, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có sự thay đổi một cách mạnh mẽ về tư duy trong tổ chức giáo dục đại học, như thay đổi cách tuyển sinh, lựa chọn “đầu vào” theo hướng thoáng hơn, cho phép các cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách nhiệm với người học bằng chính “uy tín” đào tạo của mình, cho phép hình thành nhiều mô hình đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để bảo đảm chất lượng chung - Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt để giảng dạy cho người học), nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Tất nhiên, các cơ sở đào tạo cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt chẽ để bảo đảm tính hiệu quả của việc dạy và học. 14
- -Công tác chuẩn bị giáo án, bài giảng luôn đầy đủ, chu đáo. Các phương pháp giảng dạy mới, tiên tiến được đội ngũ giáo viên cập nhật, bổ sung kịp thời như giáo án, bài giảng điện tử, áp dụng các sáng kiến cải tiến mô hình, thiết bị dạy học. • Xây dựng kế hoạch rà sát đúng, tổ chức điều hành linh hoạt: -Nhà trường cần luôn quan tâm, chỉ đạo cơ quan xây dựng kế hoạch giáo dục cho từng khóa học, từng học kỳ, sát với từng đối tượng học sinh, sinh viên với tính khoa học, logic. -Quá trình quản lý, điều hành kế hoạch huấn luyện, giảng dạy linh hoạt. Công tác hiệp đồng giữa các cơ quan, khoa giáo viên và đơn vị quản lý học viên chặt chẽ, duy trì huấn luyện, giảng dạy đúng theo chương trình khung đã xác định, giữ vững và nâng cao chất lượng giảng dạy. •Đổi mới sinh hoạt chuyên môn: -Sinh hoạt chuyên môn phải mang mày sắc chuyên môn, tăng cường thảo luận trao đổi chương dạy khó, bài dạy khó, mục dạy khó, đặc biệt thảo luận cách thức soạn giáo án sao cho giáo án phải thể hiện được phương pháp dạy sát đến từng đối tượng học sinh, sinh viên. Một tháng tổ, nhóm chuyên môn phải thảo luận xây dựng được một giáo án mẫu, sau đó cử người thực hiện sau khi dạy xong tổ nhóm trao đổi thảo luận xem đã thực sự hiệu quả đến từng sinh viên chưa, phải chỉnh sửa bổ sung vấn đề gì nữa không, cuối cùng hoàn thiện dạy lại lần 2. • Khắc phục thực trạng yếu ngoại ngữ của sinh viên bằng việc cho thành lập các CLB Anh Văn giúp sinh viên có cơ hội giao lưu, cùng nhau luyện tập các kĩ năng nghe, nói Ngoại ngữ. 16