Đề tài Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ngay từ những thập niên của đầu thế kỉ XX, Chính phủ Nhật Bản đã chú trọng
đến việc bảo tồn di sản văn hóa truyền thống. Hiện nay, ở Nhật Bản, có hàng trăm khu vực
cổ kính, lịch sử và trở thành những điểm du lịch văn hóa nổi tiếng. Nhật Bản đã biến du lịch
di sản văn hóa trở thành một thương hiệu của ngành du lịch nước này và đã gặt được không ít
thành công. Bài viết nêu và phân tích chính sách, thực trạng phát triển du lịch di sản văn hóa
của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Từ khóa: du lịch di sản văn hóa, du lịch bền vững, di sản văn hóa, bảo tồn di sản, Nhật
Bản, Việt Nam. 
pdf 9 trang xuanthi 03/01/2023 1240
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_du_lich_di_san_van_hoa_cua_nhat_ban_va_bai_hoc_kinh_n.pdf

Nội dung text: Đề tài Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam kinh tế, đồng thời, sử dụng du lịch để quảng bá văn hóa dân tộc ra thế giới. Đó cũng là những vấn đề mà Việt Nam có thể học tập trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, sử dụng văn hóa như một nguồn tài nguyên du lịch, phát triển kinh tế. Tác giả Nguyễn Phúc Lưu (2020) đã tìm hiểu kinh nghiệm bảo tồn di sản văn hóa ở Nhật Bản, từ đó chia sẻ những bài học có giá trị về phương pháp tiếp cận và tài liệu tham khảo hữu ích cho Việt Nam trong bài viết Kinh nghiệm phát triển bền vững du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và một số khuyến nghị cho Việt Nam [12]. Các nghiên cứu đã cho thấy, di sản văn hóa được coi là tài nguyên quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt là trong hoạt động du lịch. Việc khai thác các di sản văn hóa trong hoạt động du lịch phải đảm bảo tăng trưởng, nhưng không để lại những hậu quả tiêu cực cho văn hóa và môi trường bản địa. Vì vậy, vấn đề cân bằng giữa phát triển du lịch và gìn giữ di sản văn hóa luôn là mối quan tâm của những người làm du lịch có trách nhiệm. Nhật Bản đã thành công trong phát triển du lịch di sản văn hóa và Việt Nam với rất nhiều di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận nên có nhiều tiềm năng để khai thác, phát triển du lịch di sản văn hóa, song cần tìm hiểu và học tập kinh nghiệm thành công của Nhật Bản để có thể vừa phát triển du lịch vừa bảo tồn được di sản văn hóa. Trước hết để hiểu thế nào là du lịch di sản văn hóa, hiện có nhiều cách cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Theo Công ước quốc tế về du lịch văn hóa được thông qua năm 1999, di sản là một khái niệm rộng lớn gồm cả môi trường thiên nhiên lẫn văn hoá, tức là bao gồm: cảnh quan, các tổng thể lịch sử, các di chỉ tự nhiên và do con người xây dựng, và cả tính đa dạng sinh học, các sưu tập, các tập tục truyền thống và hiện hành, tri thức và kinh nghiệm sống. Di sản ghi nhận và thể hiện quá trình phát triển lịch sử lâu dài vốn đã tạo nên bản chất của các thực thể quốc gia, khu vực, bản địa và địa phương và là một bộ phận hữu cơ của đời sống hiện đại. Nó là một điểm quy chiếu rung động và là một công cụ tác dụng cho phát triển và trao đổi. Di sản riêng và ký ức tập thể của mỗi địa vực hoặc cộng đồng là không gì thay thế được và là một nền tảng quan trọng cho phát triển, hôm nay và cả mai sau. Du lịch di sản văn hóa được định nghĩa là du lịch hướng tới việc trải nghiệm nghệ thuật, di sản và các hoạt động văn hóa mang tính đại diện cho những câu chuyện về con người trong quá khứ và hiện tại. Nhưng các học giả Nhật Bản lại có cách hiểu khác, theo Tano Akihiko (2008), Kumoro Mitsuhiro (2014), Takasaki Yuko (2014) đều cho rằng: Du lịch di sản văn hóa là một nhánh của du lịch hướng tới việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên văn hóa, di sản vào trong hoạt động du lịch [16, 10, 17]. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Chính sách phát triển du lịch di sản Nhật Bản Nhật Bản đã chú trọng ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật để bảo tồn di sản văn hóa quốc gia từ khá sớm. Năm 1910, Nhật Bản đã ban hành Luật Bảo tồn di tích danh lam thắng cảnh tự nhiên. Tiếp đó, Luật Bảo tồn kho báu Quốc gia được ban hành vào năm 1929 và Luật Bảo vệ di sản văn hóa được ban hành vào năm 1950, sửa đổi vào năm 1975. Các văn bản pháp luật này đã thiết lập hệ thống khung chính sách bảo vệ giá trị văn hóa của di sản cũng như hệ thống hỗ trợ cho việc bảo tồn di sản văn hóa. Khi có hệ thống khung chính sách nêu trên, các di sản văn hóa được bảo tồn và từng bước được sử dụng cho mục đích du lịch với phong trào cải tạo các tòa nhà lịch sử và sử dụng nó như những cơ sở du lịch. Hình ảnh các thị trấn lịch sử được làm thành những tấm áp phích trong các chiến dịch quảng bá “Khám phá Nhật Bản”, việc xếp hạng tài nguyên du lịch quốc gia và cuốn sách ảnh “Nhật Bản tuyệt đẹp - nơi nên đến ít nhất một lần” đã thu hút được rất nhiều khách du lịch đến Nhật Bản. Đồng thời, các tổ chức cộng đồng và chính quyền địa phương ở Nhật Bản cũng tổ chức nhiều Hội thảo quốc gia về bảo tồn di sản văn hóa để trao đổi thông tin, học hỏi 65
  2. Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Bên cạnh ba điều kiện cần nêu trên, các điểm đến du lịch di sản còn phải xây dựng nên một thị trấn hay làng quê có chất lượng sống tốt và một điểm đến tham quan du lịch hấp dẫn. Muốn vậy, đầu tiên, người dân cần phải có cuộc sống phong phú, năng động và giàu truyền thống văn hóa, từ đó du khách có thể thưởng thức lối sống năng động và truyền thống của họ. Thứ hai, các điểm du lịch phải là nơi có các hoạt động khác nhau để xem, để ăn, để chơi, để đi bộ, để trải nghiệm bằng cách sử dụng di sản văn hóa và các nguồn lực địa phương. Như thế, du khách sẽ có thể thưởng thức du lịch với trải nghiệm cuộc sống ở địa phương. Đây cũng chính là những kinh nghiệm mà các địa phương có di sản văn hóa ở Nhật Bản đã trao đổi, thông tin với nhau và các điểm đến du lịch di sản văn hóa các nước khác cũng có thể học tập theo. 2.2. Thực trạng phát triển du lịch di sản của Nhật Bản Trên cơ sở chính sách tích hợp giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa, du lịch di sản của Nhật Bản đã được phát triển trên ba bình diện. 2.2.1. Khai thác các tài nguyên di sản văn hóa vật thể và phi vật thể dùng cho du lịch Các di sản văn hóa vật thể đã được sử dụng để phát triển du lịch như: kĩ thuật dệt vải gai Ojiyachijimi, Echigojofu; kĩ thuật dệt lụa Yukitsumugi; kĩ thuật làm giấy Sekishubanshi, Washi, Honminoshi, Hosokawashi. Các tài nguyên văn hóa phi vật thể như: kịch Noh và Kabuki, nghệ thuật múa rối Bunraku, điệu nhảy trồng lúa Akiu no Taue Odori, dân gian Chakkirako, điệu nhảy người Ainu ở Okinawa; nhã nhạc Gagaku, lễ hội Daimokutate, điệu múa tế thần Hayachine kagura, đức tin dân gian Todonshi, nghi lễ nông nghiệp Okunoto no Aenokoto cũng là những yếu tố quan trọng giúp thu hút khách du khách của Nhật Bản (Lưu Thị Thu Thủy, 2015) [18]. Di sản văn hóa là động cơ, động lực hình thành mong muốn du lịch, đồng thời di sản văn hóa cũng là môi trường tương tác, giúp du khách có cơ hội trải nghiệm, vì vậy nó đã trở thành nguồn tài nguyên, nguồn lực chủ yếu để phát triển du lịch. Di sản văn hóa cũng là một trong những công cụ hỗ trợ tích cực giúp định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu và quảng bá cho du lịch Nhật Bản. Bên cạnh đó, sức hút của di sản văn hóa đã tạo ra không ít làn sóng đầu tư vào du lịch di sản, thu hút khách du lịch, thậm chí tác động đến tâm lí và hành vi của du khách (Tano Akihiko, 2008) [16]. Việc sử dụng di sản văn hóa phát triển du lịch ngoài ý nghĩa du lịch và tiêu dùng, nó còn có ý nghĩa mạnh hơn, đó là chức năng truyền tải văn hóa Nhật Bản ra bên ngoài và phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc sử dụng văn hóa như một tài nguyên du lịch, công cụ quan trọng giúp bảo tồn, thúc đẩy sự hiểu biết, sẽ giúp mỗi công dân trực tiếp tham gia vào việc bảo tồn, quảng bá nền văn hóa Nhật Bản ra thế giới (Takasaki Yuko, 2014) [17]. Điều này được minh chứng trong trường hợp sử dụng di sản văn hóa trong du lịch của thành phố Maizuru thuộc Kyōto (Suga Takayoshi, 2017) [15]. Tuy nhiên, du lịch là tác nhân có ảnh hưởng hai chiều đối với di sản văn hóa. Bên cạnh tính tích cực như du lịch đem lại nguồn lợi ích kinh tế, tạo công ăn việc làm cho cư dân địa phương, truyền bá văn hóa ra thế giới, quảng bá hình ảnh và định vị thương hiệu quốc gia, kinh phí từ hoạt động du lịch giúp bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa, phát huy giá trị di sản văn hóa, nhất là trong loại hình du lịch di sản văn hóa, sự phát triển ồ ạt của dòng người du lịch cũng ảnh hưởng tới di sản văn hóa, tác động đến môi trường. Việc khai thác, sử dụng di sản văn hóa vào phát triển du lịch quá nhanh sẽ ảnh hưởng lớn đến môi trường tự nhiên, văn hóa- xã hội và các di sản văn hóa. Sự gia tăng khách du lịch nhanh, nhiều tác động lớn đến làng cổ Shirakawago và Gokayama, gây áp lực cho núi Phú Sĩ do quá tải số lượng du khách leo núi (Ken Noguchi, 2015) [9]. Thậm chí, chính quyền tỉnh Tottori để giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên của đồi cát nơi đây, đã thường xuyên phải dọn dẹp, do nó bị các du khách viết hoặc vẽ lên. Đây là vấn đề “ô nhiễm du lịch”, nhưng theo Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (JTA), nó chưa phát triển rộng rãi và vẫn trong tầm kiểm soát (ACA, 2019) [1]. Akiko Takasaka (2019) đã bác bỏ quan điểm của JTA. Tác giả luận giải rằng, hiện có 3 loại tác hại lớn do “ô nhiễm du lịch” ở Nhật Bản. Đó là quá tải 67
  3. Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam sản văn hóa dùng cho du lịch. Đó là sự liên kết giữa du lịch với khai thác, bảo tồn văn hóa, sự liên kết giữa các vùng trong phát triển và quảng bá du lịch. Những liên kết đã tạo ra các tuyến du lịch văn hóa có tính liên vùng và liên khu vực. Nhật Bản đã thành công khi xây dựng các điểm văn hóa thành các trục du lịch di sản văn hóa, tiêu biểu như: Tokyo - Kyoto- Nara; Tokyo - Odaiba - Núi Phú Sĩ - Hồ Yamanaka - Nagoya - Kyoto - Osaka; Osaka - Kobe - Kyoto - Hamamatsu - Núi Phú Sĩ - Tokyo; Osaka - Kyoto - Rừng tre Sagano - Công viên Awaji sajiki - Wakayama - Osaka; Kyoto - Nara - Wakayama Sự phát triển cả trên ba bình diện nêu trên đã giúp cho du lịch di sản văn hóa Nhật Bản nói riêng và du lịch Nhật Bản nói chung phát triển mạnh mẽ. Theo Sách trắng Du lịch Nhật Bản, năm 2018, quốc gia này đã đón hơn 31,19 triệu lượt khách quốc tế (tăng 8,7% so với năm 2017) (trong đó, hơn 50% du khách đến từ các nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam ), đạt doanh thu gần 42,2 tỉ USD, đưa Nhật Bản trở thành nền kinh tế lữ hành và du lịch lớn thứ 3 trên thế giới. Theo các nghiên cứu của Hiệp hội lữ hành Nhật Bản, các sản phẩm du lịch dành cho du khách chủ yếu là các chuyến đi gia đình và du lịch tham quan giải trí. Dựa trên dữ liệu và số liệu thống kê từ chính quyền Nhật Bản cho thấy, sự đóng góp của du lịch nói chung và du lịch di sản văn hóa cho nền kinh tế nói riêng tương đương với các ngành công nghiệp hàng đầu như ô tô, có tác động lớn đến việc làm của người lao động. Có thể nói, chính sách tích hợp giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa đã phát huy hiệu quả, giúp cân bằng giữa công tác bảo tồn với phát triển, khuyến khích khách du lịch tìm hiểu nhiều hơn về các điểm đến di sản văn hóa của Nhật Bản. Bên cạnh việc sử dụng di sản văn hóa, biến nó thành trọng điểm du lịch di sản, người Nhật còn nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa các loại hình du lịch với di sản văn hóa thế giới ở Nhật, từ đó tăng cường các cơ sở du lịch tập trung vào di sản văn hóa thế giới và di sản, góp phần tạo dựng du lịch di sản văn hóa thành đặc trưng riêng của du lịch Nhật Bản. 2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Tính đến hết năm 2019, Việt Nam có 28 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới, trong đó có 19 di sản văn hóa. Đây là những tài sản vô giá chung của toàn nhân loại. Ngoài ra, Việt Nam còn có hàng ngàn di sản cấp quốc gia, cấp thành phố Tuy nhiên, hiện chỉ có một số rất ít các di sản vật thể và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận đang thực hiện tốt song hành hai nhiệm vụ bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản. Những hạn chế, yếu kém trong nội dung quản lí di sản văn hóa đã bộc lộ khá rõ, như: định hướng quản lí về di sản kết hợp với hoạt động du lịch di sản văn hóa chưa rõ ràng; việc triển khai và thực thi các chính sách quản lí bền vững chưa sâu sát; chưa gắn kết được vai trò trung tâm của cộng đồng dân cư địa phương với các di sản; chính sách về quản lí và phát triển du lịch di sản văn hóa vẫn còn chung chung; việc kiểm tra, giám sát thực hiện quản lí còn lỏng lẻo; công tác đánh giá và điều chỉnh chính sách không được triển khai hoặc có triển khai nhưng chỉ mang tính hình thức và không được đánh giá chi tiết, không bổ sung những thiếu sót kịp thời. Để khắc phục các hạn chế nêu trên và phát triển du lịch di sản văn hóa, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm tích hợp giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa như sau: Một là, xây dựng mục tiêu phát triển du lịch di sản văn hóa cho cộng đồng văn hóa xã hội tại địa phương nơi có các di sản văn hóa. Cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của các di sản văn hóa, kiến thức của cán bộ quản lí trong công tác tổ chức, quản lí hoạt động du lịch di sản văn hóa tại các điểm tham quan nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Xây dựng quy trình kiểm soát tổ chức tại các điểm di sản văn hóa nhằm bảo đảm công tác tổ chức đạt hiệu quả, phù hợp với sức chứa của di sản. Hai là, xây dựng sự tham gia của cộng đồng trong việc phát triển du lịch tại di sản văn hóa thế giới nói riêng và di sản văn hóa nói chung, đòi hỏi sự tích cực tham gia của cộng đồng địa 69
  4. Du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] ACA, 2019. “Hướng tới triển vọng quốc gia hàng đầu về du lịch bền vững: phụ lục những ví dụ điển hình hướng tới du lịch phát triển bền vững” (文化庁 (2019年), “持続可能な観 光先進国に向けて- 付録 持続可能な観光の現在に向けた先進事例集” (tại https:// www.mlit.go.jp/common/001293012.pdf) [2] Akiko Takasaka, 2019. “Đối phó bắt buộc với ô nhiễm du lịch hướng tới quốc gia du lịch phát triển bền vững”, JRI Review, Vol.6, No. 67, pp. 97 -123(高坂晶子 (2019), “求められ る観光公害(オーバーツーリズム)への対応─持続可能な観光立国に向けて”), tr. 101-102 sdd. [3] Công ước quốc tế về du lịch văn hóa được Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế (ICOMOS) thông qua tại Đại Hội đồng lần thứ 12 ở Mexico, tháng 10/1999 [4] Chương ba: giải thích về các điểm hướng tới thúc đẩy quảng bá du lịch mới dành cho khách nước ngoài (第3章:外国人旅行者向けニューツーリズム推進に向けたポイン トの解説) truy cập ngày 12/6/2019 tại địa chỉ 000210592.pdf [5] Fukufuji Keiji, 2005. “Phân tích hiệu quả và tính kinh tế của việc đăng nhập di sản văn hóa thế giới: Nghiên cứu trường hợp về 88 địa điểm của Shikoku”, Trung tâm nghiên cứu chính sách khu vực Ehime, ECPR 2005, Tập 1, Tr 45 -51) (服藤圭二 (2005年), “自主研 究世界遺産登録による経済波及効果の分析- 四国八十八ヶ所を事例として”, えひめ 地域政策研究センター, ECPR 2005, Vol (1), Pp. 45-51) [6] Nguyễn Thị Thúy Hạnh, 2017. “Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở Nhật Bản và một số gợi ý cho ngành du lịch Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 22, tr.97-102 [7] Japan National Tourist Organization (JTA), “Spiritual Tour of Japan”, truy cập ngày 5/7/2019 tại địa chỉ ương trình.pdf [8] Kudō Yasuko, 2017. “Nghiên cứu tính lịch sử mơ hồ trong tài nguyên văn hóa ở du lịch Matsue”, Tuyển tập bài phát biểu tại Hội nghị quốc tế về du lịch, Tập số 24, tr. 33-41) (工 藤泰子(2017), “松江観光における文化資源としての不昧に関する史的研究”, 日本国 際観光学会論文集, 第24号, Pp 33 - 41). [9] Ken Noguchi, 2015. “Những bài tập nghiêm khắc áp đặt lên núi Phú sĩ và di sản thế giới”, Nxb PHP, bản online tại 野口健 (2015年), “世界遺 産・富士山に課せられた厳しい宿題”, PHP Online 周知 PHP研究所, php.co.jp/article/1968 [10] Kumoro Mitsuhiro, 2014. “Nghiên cứu liên quan đến việc phục hồi du lịch và sử dụng di sản thế giới”, Báo cáo nghiên cứu lần thứ 35 của Viện nghiên cứu chính sách giao thông vận tải, VOL17, No.2, Pp. 70 -74 (小室充弘(2014年), “世界遺産を活用した観光振興の あり方に関する研究”, 運輸政策研究所 第35回 研究報告会, 運輸政策研究 Vol.17 No.2, pp. 70 -74) [11] Lee Young Sook, Senichi Sakuno, Nina Prebensen, Kazuhiro Kimura, 2018. “Tracing Shintoism in Japanese nature-based domestic chương trìnhism experiences”, Cogent Social Sciences, Abingdon, Vol. 4, Iss.1, Pp. 1-13. [12] Nguyễn Phúc Lưu, 2020. Kinh nghiệm phát triển bền vững du lịch di sản văn hóa của Nhật Bản và một số khuyến nghị cho Việt Nam, /10/27/kinh-nghiem-phat-trien-ben-vung-du-lich-di-san-van-hoa-cua-nhat-ban-va-mot-so- khuyen-nghi-cho-viet-nam/ 71