Đề tài Khai thác tài sản trí tuệ mạng yếu tố địa danh để phát triển du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Tỉnh Thừa Thiên Huế là địa phƣơng địa thế quan trọng trong chiến
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung. Nguồn tài nguyên du lịch
phong phú, có nhiều cảnh quan đẹp, mang đậm nét lịch sử lâu đời của vùng đất Cố
Đô, cùng với đó là những địa phƣơng có nhiều TSTT có tiềm năng phát triển lớn.
Việc phát triển du lịch nhất thiết phải có các điều kiện về tài nguyên du lịch, mà
TSTT địa phƣơng lại đóng góp phần lớn trong các tài nguyên đó. Hay nói cách khác,
TSTT địa phƣơng là nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch. Đồng thời, du lịch
phát triển cùng với sự tham gia của cộng đồng cũng mang lại những giá trị kinh tế, xã
hội cho địa phƣơng, góp phần bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của địa
phƣơng, cải thiện đời sống của những ngƣời sở hữu TSTT, thúc đẩy sự phát triển của
ngành du lịch.
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung. Nguồn tài nguyên du lịch
phong phú, có nhiều cảnh quan đẹp, mang đậm nét lịch sử lâu đời của vùng đất Cố
Đô, cùng với đó là những địa phƣơng có nhiều TSTT có tiềm năng phát triển lớn.
Việc phát triển du lịch nhất thiết phải có các điều kiện về tài nguyên du lịch, mà
TSTT địa phƣơng lại đóng góp phần lớn trong các tài nguyên đó. Hay nói cách khác,
TSTT địa phƣơng là nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch. Đồng thời, du lịch
phát triển cùng với sự tham gia của cộng đồng cũng mang lại những giá trị kinh tế, xã
hội cho địa phƣơng, góp phần bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của địa
phƣơng, cải thiện đời sống của những ngƣời sở hữu TSTT, thúc đẩy sự phát triển của
ngành du lịch.
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Khai thác tài sản trí tuệ mạng yếu tố địa danh để phát triển du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_khai_thac_tai_san_tri_tue_mang_yeu_to_dia_danh_de_pha.pdf
Nội dung text: Đề tài Khai thác tài sản trí tuệ mạng yếu tố địa danh để phát triển du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế
- tourism development with the participation of the community also brings economic and social values to the locality, contributing to the preservation and promotion of local cultural heritage, improving the lives of people who own information technology, promoting the development of the tourism industry. Therefore, the exploitation of shopping malls with landmark elements in tourism is a sustainable direction, both contributing to preserving the cultural identity of Thua Thien Hue, and can bring economic benefits to local people. The article mainly analyzes the situation of exploiting shopping malls with weak landmarks with the purpose of tourism development in Thua Thien Hue province. From there, make assessments as well as proposed options to improve efficiency. Keywords: Place, Tourism, intellectual asset, Thua Thien Hue 1. Đặt vấn đề Hiện nay, công nghiệp du lịch đang ngày càng đƣợc chú trọng và phát triển. Phát triển du lịch gắn liền với phát triển kinh tế đƣợc coi nhƣ là phát triển một ngành công nghiệp không khói. Việt Nam là một đất nƣớc có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, danh lam thắng cảnh và đặc biệt. Để tạo ra đƣợc bƣớc phát triển đột phá cho ngành du lịch Việt Nam cần khơi dậy tiềm năng về tài sản trí tuệ địa phƣơng, thế mạnh đƣợc tạo ra từ hoạt động đổi mới, các sáng tạo của mỗi địa phƣơng, chứ không chỉ dựa vào lợi thế về tài nguyên, thiên nhiên nhƣ trong thời gian trƣớc. Khai thác tài sản trí tuệ nhằm phát triển du lịch đang là xu thế chung hiện tại trên thế giới nhằm tạo ra nét đặc trƣng riêng biệt, dấu hiệu nhận biết của địa phƣơng trên bình diện quốc gia và quốc tế cho những sản phẩm, dịch vụ du lịch2. Tỉnh Thừa Thiên Huế nổi tiếng với nền văn hóa du lịch lâu đời gắn liền với lịch sử phát triển của quốc gia. Ngoài những di sản văn hóa đƣợc thế giới công nhận và bảo tồn, nơi đây còn là cái nôi của những làng nghề truyền thống với những sản phẩm trí tuệ địa phƣơng độc đáo, là điểm đến thu hút lƣợng khách du lịch đông đảo cả trong và ngoài nƣớc. Có đƣợc tiềm năng lớn nhƣ vậy nhƣng việc phát triển du lịch dựa trên hoạt động khai thác tài sản trí tuệ tại đây vẫn chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mực. Chính thì lý do đó, trong bài viết này 2 Cục sở hữu trí tuệ, 2016, Phát triển du lịch tại Việt nam cần phải khai thác tài sản sở hữu trí tuệ, tue.html, truy cập ngày 10/09/2021 147
- triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng. Cũng giống nhƣ các sản phẩm đặc sản địa phƣơng, các tri thức truyền thống này dù đƣợc gọi dƣới nhiều tên khác nhau nhƣng thƣờng vẫn gắn với thƣơng hiệu địa phƣơng, ví dụ cồng chiêng Tây Nguyên, chợ tình Sapa, Nhã nhạc cung đình Huế Trong ba nhóm đối tƣợng trên, thƣơng hiệu gắn với điểm đến thƣờng là yếu tố trung tâm, kết hợp với các yếu tố đặc trƣng khác của địa phƣơng nhƣ sản phẩm đặc sản và văn hóa truyền thống, tạo thành dấu hiệu nhận biết tổng thể về địa phƣơng đó, hay còn gọi là thƣơng hiệu địa phƣơng. Cách phân loại về TSTT mang yếu tố địa danh này cho thấy TSTT địa phƣơng và tài nguyên du lịch có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển du lịch theo định hƣớng kinh tế mũi nhọn hiện nay thì đây là một cách tiếp cận có ý nghĩa quan trọng3, chỉ ra rằng việc phát triển du lịch nhất thiết phải có các điều kiện về tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch nhân văn, mà TSTT mang yếu tố địa danh đóng góp một phần hoặc toàn bộ vào các tài nguyên đó. Nói cách khác, TSTT mang yếu tố địa danh là nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch. Ngƣợc lại, du lịch phát triển với sự tham gia của cộng đồng, mang lại những giá trị kinh tế, xã hội cho địa phƣơng, góp phần bảo tồn các di sản tự nhiên, văn hóa, cải thiện cuộc sống cho cộng đồng, những ngƣời sở hữu TSTT địa phƣơng, thúc đẩy du lịch phát triển. Vì vậy, khai thác các TSTT mang yếu tố địa danh trong du lịch là hƣớng phát triển bền vững, vừa gìn giữ đƣợc bản sắc văn hóa mỗi địa phƣơng, chống lại sự ảnh hƣởng của các yếu tố ngoại lai đồng thời có thể mang lại lợi ích kinh tế cho địa phƣơng đó.4 3. Thực trạng khai thác tài sản trí tuệ địa phƣơng ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Thống kê trên phạm vi cả nƣớc, đã có 41 tỉnh/thành phố có sản phẩm đƣợc bảo hộ chỉ dẫn địa lý, 61 tỉnh/thành phố có sản phẩm đƣợc bảo hộ nhãn hiệu tập thể và 51 tỉnh/thành phố có sản phẩm đƣợc bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận. Đối với nông sản, vùng có số lƣợng nông sản đƣợc bảo hộ nhiều nhất tính đến tháng 10/2019 là Đồng 3 Trieu Nhan (2012), Tổng cục du lịch triển khai kế hoạch công tác 2012 truy cập ngày 08/09/2021 4Lê Thị Thu Hà, Lê Ngọc Lâm (2016), Đăng ký và khai thác tài sản trí tuệ địa phương trong phát triển du lịch ở Việt Nam, viet-nam-2157834.html, truy cập ngày 09/09/2021 149
- nghiêm túc đối với việc hình thành và phát triển các sản phẩm trí tuệ địa phƣơng trong chủ trƣơng phát triển kinh tế của tỉnh nhà. 4. Đánh giá hoạt động khai thác tài sản trí tuệ mang yếu tố địa danh tại tỉnh Thừa Thiên Huế 4.1 Về những kết quả đạt được. Thứ nhất, nhiều sản phẩm trí tuệ (SPTT) mang yếu tố địa danh đã đƣợc cấp giấy chứng nhận bảo hộ của cục SHTT, đảm bảo lợi ích cho các chủ sở hữu trong việc khai thác sản phẩm đó. Thứ hai, một số đặc sản địa phƣơng hình thành dựa trên các yếu tố văn hóa hay truyền thống đã đƣợc khai thác cho mục đích phát triển du lịch. Đặc biệt đối với Nhã nhạc cung đình Huế đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể năm 2013. Thứ ba, hình thành đƣợc tƣ duy tạo lập TSTT làm thƣơng hiệu cho các điểm du lịch trọng yếu của địa phƣơng, từ đó phát triển lên mô hình khai thác TSTT địa phƣơng, mang lại lợi ích đáng kể cho phát triển du lịch. 4.2 Về những hạn chế còn tồn tại. Hạn chế về chính sách của nhà nƣớc. Thứ nhất: Nhà nƣớc chƣa thực sự coi TSTT địa phƣơng là một nguồn tài nguyên để phát triển du lịch cũng nhƣ chƣa có những chính sách khuyến khích đối với việc khai thác TSTT địa phƣơng trong phát triển du lịch. Luật du lịch và các văn bản liên quan chƣa có quy định cụ thể về nội dung này. Thứ hai: Chƣa có sự thống nhất giữa các chính sách liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và việc phát huy giá trị của TSTT địa phƣơng trong phát triển du lịch. Điều này khiến các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khai thác TSTT địa phƣơng gặp nhiều khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ cho sản phẩm của mình. Thứ ba: Quy hoạch phát triển du lịch tổng thể chƣa có định hƣớng cụ thể về việc phát huy giá trị của các TSTT địa phƣơng cho phát triển du lịch. Hạn chế của địa phƣơng. Thứ nhất: Việc nhà nƣớc chƣa có quy hoạch tổng thể về phát huy giá trị TSTT địa phƣơng trong phát triển du lịch kéo theo việc địa phƣơng cũng chƣa có chiến lƣợc 151
- Thứ hai, thực hiện đăng ký bảo hộ đối với sản phẩm chƣa đăng ký bảo hộ, để nâng cao vị thế, uy tín cũng nhƣ sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trƣờng. Thứ ba, tuân thủ quy định của pháp luật về hoạt động khai thác TSTT địa phƣơng gắn với phát triển du lịch. Thứ tư, cần mở rộng thêm các hiệp hội thƣơng mại để thống nhất về lợi ích kinh tế trong quá trình khai thác TSTT, tránh những mâu thuẫn không đáng có ảnh hƣởng đến lợi ích chung. 6. Kết luận Có thể thấy hiện nay pháp luật chƣa có định nghĩa cụ thể nào về TSTT mang yếu tố địa danh, TSTT mang yếu tố địa danh trong phát triển du lịch. Các định nghĩa về TSTT mang yếu tố địa danh chủ yếu là của các nhà nghiên cứu khoa học. Điều này cũng tạo nên một trở ngại pháp lý cho việc bảo hộ và khai thác TSTT mang yếu tố địa danh khi mà số lƣợng TSTT mang yếu tố địa danh và TSTT mang yếu tố địa danh trong phát triển du lịch đang ngày một gia tăng. Chính vì thế, việc hoàn thiện pháp luật về SHTT, pháp luật về du lịch cần phải có quy định riêng và thống nhất về bảo hộ và khai thác TSTT mang yếu tố địa danh trong phát triển du lịch. Đối với pháp luật về du lịch thì cần phải thừa nhận việc khai thác TSTT ở địa phƣơng là một nguồn tài nguyên du lịch để làm căn cứ cho các cơ quan chức năng trong việc ban hành các quy chế bảo hộ và khai thác TSTT mang yếu tố địa danh. Bên cạnh đó, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng cần nhìn nhận lại tầm nhìn phát triển du lịch dựa trên hoạt động khai thác TSTT đã đƣợc bảo hộ mang yếu tố địa danh nhằm đƣa ra những thay đổi kịp thời, hiệu quả để tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh tiếp tục phát triển chất lƣợng sản phẩm, khẳng định thƣơng hiệu du lịch thông qua các mặt hàng khi đến tay du khách trong và ngoài nƣớc. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Thu Hà (2016). Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ địa phương ở Việt Nam. Đề tài khoa học mã số B2015-08-22. 153