Đề tài Những vấn đề đặt ra trong việc triển khai mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ

Bài viết này trao đổi một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và
triển khai áp dụng mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng
xanh tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Bài viết đặc biệt nhấn mạnh
các vấn đề liên quan đến khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tài
nguyên cho phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh; phát triển
sản phẩm, dịch vụ du lịch xanh; ứng dụng khoa học và công nghệ hiện
đại với phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh; đảm bảo tính kết
nối, hài hòa lợi ích của các bên liên quan trong mô hình và đánh giá,
kiểm soát chất lượng, hiệu quả mô hình. 
pdf 12 trang xuanthi 05/01/2023 360
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Những vấn đề đặt ra trong việc triển khai mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_nhung_van_de_dat_ra_trong_viec_trien_khai_mo_hinh_pha.pdf

Nội dung text: Đề tài Những vấn đề đặt ra trong việc triển khai mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ

  1. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Theo Tang Chengcai và cộng sự (2017), phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh theo nghĩa hẹp là một loại hoạt động du lịch có chú ý đến bảo vệ tài nguyên tự nhiên và môi trường sinh thái; theo nghĩa rộng, là sự phát triển nhằm đạt được lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường thông qua hiện thực hóa ý tưởng phát triển xanh, phương pháp phát triển, sản phẩm, tiêu dùng và quản lý [9]. Theo Nguyễn Anh Tuấn và đồng tác giả (2020), phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh là phương thức phát triển dựa trên cơ sở tôn trọng, bảo tồn, phát huy hiệu quả các giá trị tài nguyên; thực hiện các hoạt động quản lý, kinh doanh và tiêu dùng du lịch xanh; tiêu thụ ít năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo; đồng thời, tạo việc làm, cải thiện sinh kế và mang lại hạnh phúc cho người dân, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững [1][4]. Phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh là mô hình, phương thức để chuyển đổi từ phát triển du lịch theo chiều rộng sang phát triển du lịch theo chiều sâu, theo hướng “xanh” và bền vững. Để phát triển du lịch Việt Nam theo hướng tăng trưởng xanh, cần thiết phải triển khai thực hiện đồng bộ trong toàn ngành, cho từng vùng, từng địa phương và từng khu, điểm du lịch. Đồng thời, cần xây dựng mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh cho mỗi cấp khác nhau, bởi mỗi vùng, địa phương, khu, điểm du lịch có đặc điểm kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên, đặc điểm tài nguyên và nguồn lực cho phát triển du lịch không giống nhau. Hơn thế, quá trình triển khai áp dụng mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh cho mỗi cấp cũng đặt ra nhiều vấn đề, căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tế của mỗi vùng, địa phương, khu, điểm du lịch để giải quyết triệt để những vấn đề này nhằm phát huy tối đa hiệu quả của mô hình. II. MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG XANH VÙNG NAM TRUNG BỘ 1. Một số mô hình phát triển du lịch bền vững và phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh Hiện đã có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới và trong nước về mô hình tăng trưởng xanh và kinh tế xanh. Tuy nhiên, những nghiên cứu về tăng trưởng xanh trong lĩnh vực du lịch và mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh cụ thể cho một vùng, địa phương và khu, điểm du lịch còn khá hạn chế. Một số tổ chức quốc tế đã đưa ra mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững trong lĩnh vực du lịch. Theo UNWTO, mô hình du lịch bền vững phải bao gồm 09 tiêu chí: có quy hoạch môi trường chiến lược; có chất lượng môi trường tốt; có hệ thống xử lý nước thải và rác thải; có hệ thống cung cấp năng lượng tái tạo; điểm đến các-bon trung tính; có hệ thống các công trình xanh; có hệ thống vận chuyển bền vững; có nhãn sinh thái cấp cho các cơ sở kinh doanh du lịch; có trách nhiệm xã hội (Hình 1). 75
  2. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Nguồn: Dịch từ OECD, 2011 Hình 2. Mô hình Tăng trưởng xanh trong lĩnh vực du lịch của OECD Alexandra Law và cộng sự (2016) đã đưa ra mô hình tăng trưởng xanh tại hòn đảo du lịch Bali, Indonesia. Mô hình dựa trên triết lý phổ biến và lâu đời của người dân đảo Bali “Tri Hita Karana” (có nghĩa là “Ba lý do cho sự thịnh vượng”: Hòa hợp với Chúa - Hòa đồng với mọi người - Hòa hợp với thiên nhiên và môi trường). Mô hình dựa trên 10 nền tảng (đầu vào) gồm chính sách minh bạch, sức mạnh lãnh đạo, hiệu quả tổ chức, tích hợp quy hoạch, nghiên cứu vững chắc, đào tạo toàn diện, công nghệ hàng đầu, kết nối cộng đồng, đối tác đầu tư và văn hóa nổi trội để thực hiện 16 Chiến lược nhằm đạt được 04 mục tiêu tăng trưởng xanh: tăng trưởng kinh tế hiệu quả; cải thiện chất lượng cuộc sống người dân; tạo lập môi trường tốt hơn; thấp các-bon và một Bali đích thực [8]. (Hình 3). Nguồn: Alexandra Law, et al. (2016) [8] Hình 3. Mô hình tăng trưởng xanh ở Bali, Indonesia Năm 2020, nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch Việt Nam theo hướng tăng trưởng xanh”, Nguyễn Anh Tuấn và đồng tác giả đã xây dựng 03 mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh cho khu, điểm du lịch tại Việt Nam, bao gồm: mô hình chuỗi tuần hoàn, mô hình chuỗi nối tiếp và mô hình hình chóp phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh [4] (Hình 4). Dù vận hành theo mô hình nào, hiệu quả đầu ra đều phải đảm bảo cả 3 trụ cột: Về kinh tế là hiệu quả tăng trưởng dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên và các nguồn lực; về văn 77
  3. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch sân bay quốc tế (Đà Nẵng, Cam Ranh) cùng một số sân bay nội địa. Các loại hình du lịch chủ đạo của Vùng là du lịch biển, đảo; du lịch văn hoá; du lịch đô thị; du lịch MICE. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên và các yếu tố nguồn lực khác cho phát triển du lịch, tuy nhiên, đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi biến đổi khí hậu. Do đó, phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh là định hướng quan trọng, là con đường phát triển du lịch bền vững tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và các mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh trong nước cũng như trên thế giới, Nguyễn Thị Lan Hương và đồng tác giả (2021) đã đề xuất mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (Hình 5). Mô hình được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển mô hình tăng trưởng xanh ở Bali - Indonesia của Alexandra Law (Hình 3) và mô hình hình chóp phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh của Nguyễn Anh Tuấn (Hình 4.c). Nguồn: Nguyễn Thị Lan Hương và đồng tác giả (2021), Đề tài KH&CN cấp Bộ: “Mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ” (dự thảo). Hình 5: Mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Mô hình gồm 03 tầng phát triển: (1) Tầng thấp: thể hiện nguồn lực và các yếu tố đầu vào cũng như tình hình phát triển du lịch hiện tại của Vùng; là nền tảng khởi đầu dựa trên những điều kiện hiện có để khởi động cho quá trình phát triển du lịch theo hướng 79
  4. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch đến các giá trị tài nguyên. Khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch và bảo tồn các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hoá phải luôn song trùng. Một khi tài nguyên bị khai thác quá mức, các giá trị tài nguyên bị xâm hại thì không còn phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất lớn đặt ra cho vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Với đặc điểm địa hình nhỏ, dẹt, diện tích núi, rừng và vùng ngập mặt chiếm đa số, quỹ đất dành cho phát triển du lịch khá hạn chế. Hơn thế, Duyên hải Nam Trung Bộ lại là vùng du lịch trọng điểm của cả nước, với những “điểm nóng” thu hút khách du lịch như thành phố Đà Nẵng, thành phố Hội An (Quảng Nam), thành phố Nha Trang (Khánh Hoà), nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên tự nhiên cho phát triển du lịch là rất lớn. Bài toán cân đối hài hòa giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững đặt ra thách thức lớn đòi hỏi các cấp quản lý cần có chiến lược, chính sách và cơ chế thích hợp để đảm bảo mục tiêu phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh. 2. Lựa chọn, phát triển các sản phẩm và dịch vụ du lịch xanh, những loại hình du lịch gần gũi với thiên nhiên, thân thiện với môi trường Tương ứng với khai thác, sử dựng hợp lý các giá trị tài nguyên, phát triển sản phẩm và dịch vụ du lịch xanh, các loại hình du lịch gần gũi với thiên nhiên, thân thiện với môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Sản phẩm và dịch vụ du lịch là trung tâm điều phối các mối quan hệ giữa người bán (doanh nghiệp, cộng đồng kinh doanh du lịch) với người mua (khách du lịch) và người quản lý (kiểm soát chất lượng sản phẩm và hoạt động kinh doanh hợp pháp). Phát triển sản phẩm du lịch xanh để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng du lịch xanh và ngược lại, nghiên cứu, khai thác các thị trường có nhu cầu tiêu dùng du lịch xanh để định hướng, phát triển sản phẩm du lịch xanh là vấn đề cốt lõi, quan trọng để triển khai mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Sản phẩm du lịch xanh là những sản phẩm du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, thân thiện với môi trường, phù hợp với các nguyên tắc phát triển bền vững [4]. Một số sản phẩm, loại hình du lịch theo hướng xanh gồm: du lịch sinh thái; du lịch nông nghiệp - nông thôn; du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dưỡng núi, nghỉ dưỡng biển, đảo; du lịch gắn với giáo dục môi trường. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có thế mạnh về du lịch biển, đảo, có thể phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái biển, đảo; tham quan, thắng cảnh biển, đảo; nghỉ mát, tắm biển, vui chơi giải trí, thể thao biển; nghỉ dưỡng biển, đảo. Tuy nhiên, phát triển du lịch cũng cần quán triệt nguyên tắc “không đánh đổi tài nguyên cho phát triển du lịch bằng mọi giá”, kiên quyết với các dự án du lịch “núp bóng” (kinh doanh bất động sản đằng sau các dự án du lịch); ưu tiên các nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính, công nghệ, có kinh nghiệm và trách nhiệm để phát triển các sản phẩm nghỉ dưỡng biển, đảo cao cấp. Cần lựa chọn, phát triển hài hoà các loại hình du lịch xanh khác như du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên; du lịch văn hoá, du lịch 81
  5. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch BĐKH. Với sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN hiện đại, việc triển khai, ứng dụng các công nghệ tiên tiến đã và đang góp phần mang lại hiệu quả tích cực cho phát triển du lịch. Vì thế, để đảm bảo sự thành công khi triển khai áp dụng mô hình tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, vấn đề đặt ra là phải tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại. Các công nghệ được áp dụng có thể thể xác định 3 nhóm chủ yếu sau: (1). Công nghệ ứng dụng trong quản lý tài nguyên, kiểm soát môi trường và cảnh báo thiên tai: các công nghệ định vị, công nghệ viễn thám hỗ trợ công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên tự nhiên; công nghệ 3D, 360o, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ thực tại tảo và thực tại tăng cường (VR, AR) trong phục dựng di sản văn hóa và thiên nhiên, số hoá tài nguyên du lịch; các công nghệ cảnh báo thiên tai, dự báo thời tiết; công nghệ xử lý rác thải, nước thải; các nhóm công nghệ này góp phần quản lý hiệu quả tài nguyên du lịch, giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực tiến tới thích ứng với biến đổi khí hậu. (2). Công nghệ năng lượng mới, năng lượng tái tạo; công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học: công nghệ điện gió, điện mặt trời đang rất phổ biến, có thể triển khai áp dụng tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, góp phần tiết kiệm và giảm thiểu sử dụng năng lượng hóa thạch, giảm áp lực và hạn chế phát triển các nhà máy thủy điện nhỏ, góp phần bảo vệ tài nguyên tự nhiên, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học tạo ra vật liệu siêu nhẹ, siêu bền, siêu sạch và nhiên liệu sinh học (xăng sinh học), góp phần bảo vệ môi trường. (3). Công nghệ thông tin truyền thông và các công nghệ ứng dụng trong quản lý, kinh doanh du lịch góp phần tăng tính kết nối, hiệu quả trong công tác quản lý và kinh doanh du lịch, đặc biệt là công tác xúc tiến, quảng bá, phát triển thị trường, phát triển các sản phẩm du lịch mới, hỗ trợ và tăng trải nghiệm cho khách du lịch. 5. Đánh giá, kiểm soát hiệu quả mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên gải Nam Trung Bộ Để mô hình phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đạt hiệu quả, một vấn đề quan trọng đặt ra là phải đánh giá, kiểm soát được chất lượng và mức độ hiệu quả mang lại của mô hình. Điều này có nghĩa là, từ khi mô hình được xây dựng, đưa vào thử nghiệm, đến khi triển khai áp dụng trên thực tế, phải luôn luôn được kiểm soát, đánh giá chặt chẽ, đảm bảo quá trình phát triển du lịch của Vùng thực sự theo hướng tăng trưởng xanh. Do đó, cần thiết phải xây dựng bộ tiêu chí đánh giá với các chỉ số, thang đo cụ thể, chi tiết và toàn diện. Kết quả đánh giá sẽ phản ánh bức tranh tổng diện của du lịch Vùng, có thể so sánh được trước và sau khi áp dụng mô hình phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, như: Chất lượng môi trường được cải thiện thế nào? Khả năng thích ứng với BĐKH ra sao? Chỉ số phải thải khí nhà kính giảm hay tăng? Lao động, việc làm, thu nhập và mức sống của cộng đồng bản địa thay đổi thế nào? Vấn đề bảo tồn tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa? Các chỉ số tăng trưởng du lịch? Mức độ hài lòng của khách du lịch đối với sản phẩm, 83
  6. Tổng cục Du lịch Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch nhiễm môi trường, suy kiệt tài nguyên, thiên tai, dịch bệnh đối với mô hình khi triển khai áp dụng trên thực tế; và những vấn đề có liên quan khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Anh Tuấn, Lê Quang Đăng (2019), “Phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam”, Tạp chí Du lịch, số tháng 7/2019. [2] Trương Sỹ Vinh (2019), “Phát triển du lịch xanh trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam”, Tạp chí Du lịch, số tháng 8/2019. [3] Nguyễn Văn Đính (2020), “Phát triển du lịch xanh Việt Nam”, Tạp chí Du lịch, số tháng 1-2/2020, tr.130-132. [4] Nguyễn Anh Tuấn và đồng tác giả (2020), “Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch Việt Nam theo hướng tăng trưởng xanh”, Đề tài KH&CN cấp Bộ thực hiện năm 2019 - 2020. [5] Mehdi Azam and Tapan Sarker (2011), “Green tourism in the context of climate change towards sustainable economic development in the South Asian Region”, Journal of Environmental Management and Tourism, VolumeII, Issue 1(3), pp.6-15. [6] Thomas Finkel (2011), Greening chain value tourism in Bohol, Private Sector Promotion Program PSP SMEDSEP smedsep.ph Lee SM, Honda HC, Ren G, Lo YC (2016), “The Implementation of Green Tourism and Hospitality”, Journal of Tourism and Hospitality, Volume 5. Issue 4. [7] McGrath G. M., Lipman G. H., (2016), “Green Growth Tourism Decision Support System: A Multi-Model Approach”, Australasian Journal of Information Systems, Vol 20, pp.1-20. [8] Alexandra Law, et al. (2016), “Transitioning to a green economy: the case of tourism in Bali, Indonesia”, Journal of Cleaner Production, Volume 111, Part B, Pages 295-305. [9] Tang Chengcai, et al (2017), “A review of green development in the tourism industry”, Journal of Resources and Ecology, Vol.8. No.5, pp.449-459. 85