Đề tài: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng về quan điểm Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực khối ngành kỹ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp giải quyết những hạn chế

Đường lối CNH đất nước đã được hình thành từ đại hội III của Đảng ( tháng 9-1960). Trước thời kì đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua hai giai đoạn:từ năm 1960 đến năm 1975 triểnkhai ở miền Bắc và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên cả nước. Trong quá trình đó, Đảng ta đã sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hó thời kì 1960-1985, mà trực tiếp là mười năm, từ năm 1975 đến năm 1985.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảngkinh tế- xã hội, nhiệmvụ đề ra cho chặng đường đầu thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành cho phép đất nước ta chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội đã nêu ra 6 quan điểm về CNH-HĐH và định hướng những nội dung cơ bản của CNH-HĐH. Được bổ sung và nhấn mạnh ở một số điểm mới về con đường CNH rút ngắn ở nước ta qua các kì đại hội IX( tháng 4-2001) và Đại hội X ( tháng 4-1006). Dưới đây là một số quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa , hiện đại hóa trong thời kì đổi mới:

Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên , môi trường.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

docx 24 trang xuanthi 26/12/2022 4840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng về quan điểm Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực khối ngành kỹ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp giải quyết những hạn chế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxde_tai_phan_tich_nhung_quan_diem_chi_dao_cua_dang_ve_quan_di.docx

Nội dung text: Đề tài: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng về quan điểm Công Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực khối ngành kỹ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp giải quyết những hạn chế

  1. hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát trieent mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH, phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nên kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”. 1.1.3. Đẩy mạnh CNH – HĐH phải gắn liền với bảo vệ môi trường và tài nguyên Trong vài thập niên gần đây, ở khắp nơi trên thế giới, tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường và những biến đổi bất lợi của thiên nhiên đang hằng ngày, hằng giờ ảnh hưởng tới chất lượng sống của con người. Việt Nam là quốc gia đang phát triển cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường như: cạn kiệt tài nguyên, mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường sống. Đại hội XI của Đảng đã nhận định: “Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khia thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp”. Vì vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) ngày càng trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”. Một là, “đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT, bảo vệ tài nguyên, môi trường”. Nếu Đại hội X xác định đẩy mạnh CNH – HĐH gắn với KTTT, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta, để rút ngắn quá trình CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT thì đến Đại hội XI, quan niệm về đẩy mạnh CNH – HĐH gắn với phát triển KTTT đã có thêm bước phát triển mới, đó là phải trên cơ sở bảo vệ tài nguyên, môi trường. CNH – HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta, thực chất là CNH rút ngắn, bằng cách kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của nhân loại với nguồn vốn tri thức của dân tộc. Trên cơ sở đó, một mặt, sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao hiệu quả các ngành truyền thống; mặt khác, tập trung phát triển mạnh các ngành nghề, tạo ra sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, tạo ra những bước đốt phá mới, những mức tăng trưởng cao. Như vậy, CNH – HĐH gắn với KTTT là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong giai đoạn hiện nay. CNH – HĐH sẽ không thế thực hiện được nếu như không dựa vào môi trường, vào tài nguyên thiên nhiên. Bất kể giai đoạn nào cũng vậy, dù trình độ phát triển của con người có cao đến mức nào, khoa học công nghệ có phát triển vượt bậc đến đâu, con người cũng không thế tồn tại được 8
  2. 1.2. Quan điểm thứ hai: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dụng đều được thực hiện thông qua thị trường. Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội, vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Thể hiện qua 3 luận điểm sau: Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính. Thứ ba, Nhà nước XHCN là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 1.2.2. CNH – HĐH gắn với kinh tế thị trường định hướng XHCN Trước 1986, Việt Nam vẫn theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu kinh tế hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm khả năng hòa nhập vào trào lưu phát triển của khu vực. Từ 1986, quá trình CNH được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. CNH – HĐH đất nước được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, các tiềm năng và nguồn lực của đất nước, thức đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần vào sự nghiệp CNH – HĐH. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế có lợi thế so sáng riêng về kĩ thuật, vốn, lực lượng lao động, kinh nghiệm quản lý; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Dưới sự quản lý của Nhà nước, nắm giữ các ngành, các lĩnh vực, các khâu quan trọng nhất của nền kinh tế được trang bị bằng kĩ thuật và công nghệ hiện đại đủ sức chỉ đạo và định hướng phát triển các thành phần kinh tế khác.  Góp phần xây dựng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” Mục tiêu, quan điểm cơ bản về hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng XHCN do Đảng đề ra. Mục tiêu: 10
  3. 1.2.3. CNH – HĐH gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế CNH – HĐH đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế => tính tất yếu hội nhập. Tận dụng nguồn lợi thế so sánh: Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước. CNH – HĐH gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ của đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và phù hợp với đặc điểm của thời đại, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa kinh tế; khai thác những ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường của thế giới và đẩy nhanh sự tăng trưởng của kinh tế và HĐH đất nước. 1.3. Quan điểm thứ ba: Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trước khi bước vào thời kì CNH – HĐH (1996), tại Đại hội Đảng toàn quốc VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lời và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng động xã hội”. Sự nghiệp CNH – HĐH được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. CNH – HĐH là sự nghiệp phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kì lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của quản đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp CNH – HĐH to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH – HĐH”. Nhân lực lại càng là yếu tố quyết định số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất – nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH một cách bền vững thì không thể không chăm lo phát triển con người. Đảng ta xác định rất rõ ràng, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu với nhiều hình thức đa 12
  4. tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin KHCN, thư viện cũng được tăng cường và nâng cấp. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, trong những năm qua, cơ chế quản lý trong lĩnh vực này từng bước được đổi mới theo hướng mở rộng liên kết giữa nghiên cứu với sản xuất, kinh doanh; nhờ đó, đã nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Có thể điểm một số thành tựu chủ yếu trong các lĩnh vực hoạt động KHCN sau đây: Khoa học xã hội và nhân văn trong thời kì đổi mới đã có những đóng góp tích cực vào việc phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhiều kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho việc chuẩn bị các văn kiện của Đảng; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước qua các thời kì; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cùng với các nghiên cứu lý luận cơ bản, khoa học xã hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, bức xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội như: vấn đề toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, CNH – HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực với tăng trưởng của Việt Nam; các vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v Khoa học tự nhiên phát huy được tiềm năng thế mạnh, nghiên cứu nhiều vấn đề lý thuyết định hướng ứng dụng, tiếp cận được trình độ thế giới trên một số bộ môn lý thuyết như toán, vật lý ứng dụng, v.v Nhiều công trình nghiên cứu về khoa học tự nhiên có ứng dụng tốt như: nghiên cứu thu và xử lý ảnh vệ tinh có độ phân giải cao để theo dõi tình trạng cháy rừng, trạng thái của thảm thực vật, quan sát trường nhiệt mặt biển và các thay đổi nhiệt độ trên bề mặt lãnh thổ Việt Nam, công nghệ trắc địa bản đồ ứng dụng vào điều tra, thăm dò dầu khí, tài nguyên biển và các tài nguyên khoảng sản khác. Khoa học công nghệ đã có khả năng thích nghi và làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, năng lượng, cơ khí lắp ráp ô tô, xe máy và hàng điện tử đa dùng, xây dựng đường cao tốc chất lượng cao, v.v Nhiều vấn đề cấp bách có ý nghĩa quan trọng với quốc kế dân sinh do thực tiễn đặt ra đã được lực lượng KHCN nghiên cứu giải quyết như: cơ sở khoa học cho các phương án phòng chống thiên tai, đặc biệt là phương án kiểm soát lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, các giải pháp khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên dài ven biển Bắc Bộ, các giải pháp chống sa mạc hóa vùng ven biển miền Trung, các phương pháp sản xuất vắc-xin phòng chống viêm gan B. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp và thủy sản, KHCN đã góp phần lai tạo được nhiều giống cây con cho năng suất, chất lượng cao. Ngoài các giống lúa, các giống ngô lai của Việt Nam đã cạnh tranh được với giống nhập, chiếm lĩnh 65% thị phần trong nước; đã nghiên cứu thành công kĩ thuật sản xuất và nuôi tôm sú nước mặn, nước lợ, nước ngọt, năng suất từ vài tạ/ha đã tăng lên 2-3 tấn/ha. Nhờ ứng dụng thành tựu KHCN, ngành công nghiệp đã tạo ra bước tăng sản lượng lương thực từ 30,6 triệu tấn (1997) lên 34,7 triệu tấn 14
  5. Xây dựng và phát triển thị trường KHCN. Phát triển tiềm lục KHCN, tập trung đầu tư xây dựng các lĩnh vực KHCN trọng điểm quốc gia nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với khu vực và quốc tế, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về KHCN. Chúng ta đang đứng trước những thử thách tụt hậu cả về kinh tế và KHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, xu thế phát triển mạnh mẽ KHCN cũng như nền kinh tế dựa vào tri thức. Điều này càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của KHCN trong tiến trình CNH – HĐH và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Để KHCN thật sự trở thành nền tảng và động lực cho sự nghiệp CNH – HĐH, trước hết phải quán triệt quan điểm phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu trong toàn Đảng, toàn dân. Quan điểm này phải được biến thành hành động: gắn mục tiêu phát triển KHCN với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và được chủ động triển khai thực hiện trong mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương và mỗi doanh nghiệp. 1.5.Quan điểm thứ năm: Phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội 1.5.1Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết phải phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Phát triển nhanh (PTN) gắn với phát triển bền vững (PTBV) vừa bao hàm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; đồng thời, thể hiện tốc độ và chất lượng của mô hình tăng trưởng kinh tế nước ta. Về phạm vi, mô hình kinh tế này thể hiện sự gắn kết hài hòa giữa PTN và PTBV trên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đan xen nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng. Do đó, PTN gắn với PTBV là phát triển kinh tế ổn định gắn với đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hay nói cách khác, PTBV là sự phát triển mà thế hệ hôm nay không làm tổn hại đến thế hệ ngày mai. Như vậy, nội hàm của phát triển theo nghĩa rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam vừa bước vào nhóm các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp. Vì thế, quan điểm PTN gắn với PTBV có một ý nghĩa to lớn trong định hướng phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển 2011) nêu rõ: “Các nước với chế đọ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Trong bức tranh chung đó, có nhiều thực tiễn sinh động, nhiều bài học kinh nghiệm, cả thành công và thất bại trong lựa chọn mô hình tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn cho thấy, số đông các nước vẫn dừng ở mức những nước đang phát triển với mức thu nhập thấp; tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng suất thấp, ô nhiễm môi 16
  6. này khi biết tận dụng những lợi thế của nước đi sau. Cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những điều kiện để các nước đi sau nhanh chóng đi ngay vào hiện đại, tiếp cận những văn minh, tiến bộ của nhân loại, lựa chọn những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp với tiềm năng của mỗi quốc gia để thúc đẩy tăng trửng, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa và phát triển KTTT không chỉ gắn kết mỗi quốc gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mà còn làm cho nền kinh tế mỗi nước trở thành những mắt khâu bổ trợ cho nhau, tạo thành nền kinh tế thế giới thống nhất. Đó là cơ sở khách quan mang tính thời đại, đảm bảo cho Việt Nam PTN gắn với PTBV trong chặng đường tới. Về yếu tố nội sinh, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiên PTN gắn với PTBV. Trước hết, mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước xây dựng thành công một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thứ hai, trong hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH, Việt Nam liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo cơ sở để tiếp tục PTN gắn với PTBV. Thứ ba, tiềm năng và lợi thế của đất nước cũng như những thành quả đạt được trên nhiều lình vực đã tạo đà thực hiện mục tiêu này cho những chặng đường tiếp theo. 1.5.2.Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định, các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP bình quân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội là yêu vàu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm – sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng. Đối với Việt Nam, mục đích tối cao của phát triển kinh tế - xã hội là nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chình là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người. Mặt khác, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công bằng xã hội là một khái niệm bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội sẽ có những định nghĩa riêng. Xét chung nhất, công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển, . Tiến bộ xã hội là sự vận động phát triển của xã họi con người từ thấp lên cao; là sự phát triển của trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Sự tiến bộ xã hội còn thể 18
  7. chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu – nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm về việc xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Đã coi phát triển giáo dục, đào tào cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học ành; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Quan điểm và định hướng giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta giai đoạn 2011-2020. Một là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định. Hai là, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là hai nhân tố chủ lực của phát triển bền vững. Ba là, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm các quyên con người và quyền môi trường. Bốn là, không có công bằng tuyệt đối và cần phải xóa bỏ chủ nghĩa cào bằng, bình quân. 2.Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay 2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là 20
  8. Nguyên nhân/thực trạng Giải pháp Đội ngũ cán bộ làm công tác -Nhà Nước cần dành những suất đi tu nghiệp ở nước ngoài giảng dạy có chuyên môn cho giảng viên. còn hạn chế. -Tăng các chế độ phúc lợi về lương bổng cũng như các ưu đãi cho cán bộ giảng dạy. Cơ sở vật chất hạn chế -Nhà nước cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất giảng dạy cho nhà trường. -Nhà trường cần liên kết với các doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ. Giảng viên thiếu kinh -Tăng các chế độ đãi ngộ cho giảng viên. nghiệm và tâm huyết với -Công tác tuyển dụng giảng viên cần kỹ lưỡng, không dựa nghề. vào quan hệ. -Tuyển dụng giảng viên có đủ trình độ chuyên môn, kỹ năng giảng dạy. -Thường xuyên mở các lớp rèn luyện , bồi dưỡng kỹ năng và cập nhật chuyên môn cho cán bộ giảng dạy. -Sinh viên cần tự ý thức trong việc học tập, tạo cảm hứng cho giảng viên. -Tăng cường khảo sát năng lực giảng viên thông qua sinh viên. Việc giảng dạy không gắn -Tăng cường mối liên kết giữa nhà trường và doanh với nhu cầu thực tế của nghiệp. doanh nghiệp -Nhà trường cần giảm bớt các môn đại cương thực sự không cần thiết. -Mời doanh nghiệp về trường giảng dạy. -Doanh nghiệp cần nói những yêu cầu của họ cho nhà trường. -Sinh viên cần tự ý thức học hỏi và trau dồi các vấn đề thực tế cần thiết cho công việc sau này. Thiếu kỹ năng mềm -Nhà trường cần mở thêm môn học về kỹ năng mềm. -Xen kẽ các hoạt động kỹ năng mềm vào môn học . ví dụ:hoạt động nhóm, thuyết trình -Tổ chức các hoạt động có sức hút và bổ ích cho sinh viên. -Tổ chức các buổi workshop tư vấn kỹ năng mềm. -Sinh viên cần tự ý thức về tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Tự rèn luyện viết CV, rèn luyện kỹ năng giao tiếp với người xung quanh, rèn luyện khả năng làm việc nhóm 22