Đề tài Tầm quan trọng của kinh doanh bền vững trong ngành du lịch - Võ Thị Vân Khánh

TÓM TẮT: Bài viết tập trung mô tả tổng quan nghiên cứu một lý thuyết về kinh doanh bền vững, và đi sâu
vào kinh doanh bền vững trong ngành du lịch. Các vấn đề được đề cập bao gồm tổng quan về khái niệm,
thái độ đối với kinh doanh bền vững, những lợi ích cũng như rào cản đối với kinh doanh bền vững trong
ngành du lịch.
Từ khóa: Nghành du lịch, kinh doanh bền vững 
pdf 8 trang xuanthi 03/01/2023 1400
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Tầm quan trọng của kinh doanh bền vững trong ngành du lịch - Võ Thị Vân Khánh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_tam_quan_trong_cua_kinh_doanh_ben_vung_trong_nganh_du.pdf

Nội dung text: Đề tài Tầm quan trọng của kinh doanh bền vững trong ngành du lịch - Võ Thị Vân Khánh

  1. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 313 Thomas, 2003). Trong các tài liệu rộng hơn, nhận thức và đặc biệt là nhu cầu của khách đối với các hoạt động kinh doanh bền vững trong ngành lưu trú thường xuyên được tranh luận. Mặc dù “chủ nghĩa tiêu dùng xanh” được cho là đang gia tăng, nhưng các chủ doanh nghiệp báo cáo không có sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng thực tế (Sloan, Legrand và Chen, 2009). Bởi vậy nhu cầu đặt ra cần có cái nhìn khái quát và phù hợp về kinh doanh bền vững trong ngành du lịch. Nghiên cứu này thực hiện dựa trên việc tổng quan tài liệu để thấy rõ hơn nội dung của kinh doanh bền vững trong ngành lưu trú. 2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG Mối quan tâm ngày càng tăng đối với môi trường, tài nguyên và công bằng xã hội trong những năm 1980 đã dẫn đến khái niệm phát triển bền vững (Mowforth và Munt, 2009), được định nghĩa là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không bao gồm khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu cầu của chính họ” (WCED, 1987, trang 43) được thực hiện bởi “Báo cáo Brundtland”. Dựa trên báo cáo này, Tổ chức Du lịch Thế giới Liên Hiệp Quốc (UNWTO) đã định nghĩa du lịch bền vững là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và khu vực chủ nhà hiện tại đồng thời bảo vệ và tăng cường cơ hội cho tương lai”. Dự kiến ​​sẽ dẫn đến việc quản lý tất cả các nguồn lực theo cách mà các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ có thể được đáp ứng trong khi duy trì tính toàn vẹn văn hóa, các quá trình sinh thái thiết yếu, đa dạng sinh học và các hệ thống hỗ trợ cuộc sống (Inskeep, 1998 trang 21). Các định nghĩa về phát triển bền vững cũng như du lịch bền vững đã là vấn đề tranh luận của nhiều học giả (Sharpley, 2000). So sánh khái niệm phát triển bền vững và các nguyên tắc cơ bản của nó về cách tiếp cận toàn diện, tương lai và công bằng với bản chất của du lịch Sharpley (2000) cho rằng có sự không thống nhất giữa hai khái niệm này. Do đó, một số tác giả kêu gọi phân biệt giữa du lịch bền vững và du lịch trong bối cảnh phát triển bền vững. Cho đến nay, không có định nghĩa toàn diện, bao quát và được chấp nhận rộng rãi về du lịch bền vững đã được xác định (Mowforth và Munt, 2009). Mowforth và Munt (2009 trang 100) cho rằng ‘không có bản chất thực sự tuyệt đối của tính bền vững’. Cách tiếp cận hội tụ của Clarke (1997) tập trung vào mục tiêu cuối cùng là bền vững cho tất cả các hình thức du lịch, theo đó phong trào chung theo đúng hướng là quan trọng nhất. Sự thay đổi liên tục của khái niệm đòi hỏi phải điều chỉnh sự hiểu biết của chúng ta với hệ thống phát triển bền vững và phát triển bền vững (Farrell và Twining-Ward, 2005). Do những cách hiểu khác nhau, nhiều quan niệm sai lầm về du lịch bền vững đã xuất hiện (Butler, 1998). Nhận thức và cách hiểu khác nhau giữa các bên liên quan khiến cho việc chuyển khái niệm thành hành động có ý nghĩa trở nên khó khăn (Horobin và Long, 1996), điều này bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi sự mất cân bằng về trọng lượng và quyền lực trong việc ra quyết định giữa các bên liên quan (Mowforth và Munt, 2009). Do đó, du lịch bền vững nên được xác định thông qua cách tiếp cận có sự tham gia, liên quan đến ngành công nghiệp, khách du lịch và cộng đồng chủ nhà hoặc khu vực để xác định các giá trị và chỉ số bền vững (Manning, 1999). 2.1 Tính bền vững trong ngành du lịch Ngành du lịch là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất trên toàn thế giới đã bị chỉ
  2. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 315 môi trường. Các bước tiếp theo và cuối cùng thách thức các tổ chức tiến xa hơn và bao gồm các khía cạnh xã hội và đạo đức cũng như hội nhập trong cộng đồng (Kernel, 2005). Tương tự, mô hình giai đoạn bền vững của Dunphy, Griffiths và Benn (2007) xác định các bước khác nhau mà các tổ chức có thể thực hiện để đạt được tính bền vững. Giai đoạn cuối cùng được gọi là Tập đoàn duy trì ‘nơi mà hệ tư tưởng bền vững được tiếp thu với một cam kết cơ bản để tạo điều kiện cho khả năng sinh thái của hành tinh và đóng góp vào thực tiễn xã hội công bằng và sự thỏa mãn của con người. 3.2 Thái độ đối với sự bền vững Nghiên cứu về thái độ của người quản lý doanh nghiệp là rất cần thiết vì “những rào cản nghiêm trọng nhất đối với sự thay đổi trong kinh doanh là theo quan điểm” (Dewhurst và Thomas, 2003). Lý thuyết hành động lý luận của Ajzen và Fishbein (1980) kết luận rằng mối quan hệ chặt chẽ giữa niềm tin, thái độ và ý định hành vi tồn tại, sau đó dẫn đến một số hành vi nhất định. Niềm tin và thái độ bị ảnh hưởng và hình thành thông qua áp lực môi trường vĩ mô, mối quan hệ cá nhân, giá trị và động lực cá nhân (Ajzen và Fishbein, 1980). Hobson và Essex (2001) chỉ ra rằng thái độ chung đối với môi trường và việc thực hiện các hoạt động kinh doanh bền vững là quan trọng nhất. Tuy nhiên, một số tác giả nhấn mạnh rằng thỏa thuận với các tuyên bố rộng thể hiện ý tưởng về tính bền vững là dễ dàng (Dewhurst và Thomas, 2003). Nhưng những tuyên bố và hành động cụ thể hơn được thực hiện khó đồng ý hơn và một khoảng cách nhất định giữa tuyên bố thái độ và sáng kiến ​​thực tế trở nên rõ ràng (Dewhurst và Thomas, 2003). Các nghiên cứu về thái độ của các doanh nghiệp đối với trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững cho thấy kết quả trái ngược. Một cuộc khảo sát của các nhà quản lý cấp cao trong ngành du lịch Đan Mạch cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tương đối lớn hơn coi trách nhiệm chính với ngành hoặc với ngành hợp tác với chính phủ (Bramwell và Alletorp, 2001). Tuy nhiên, một nghiên cứu được thực hiện với các công ty du lịch bên ngoài ở Anh báo cáo rằng đa số cho rằng trách nhiệm thuộc về chính phủ quốc gia và chủ nhà chứ không phải với ngành công nghiệp (Forsyth, 1995). Sự so sánh của các nghiên cứu này có thể bị hạn chế do các chiến lược kinh doanh tương phản, khung thời gian và địa điểm khác nhau. 3.3. Xác định các yếu tố về thái độ Nhiều nhà nghiên cứu có ý định hiểu rõ hơn về động cơ và nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp du lịch và điều tra xác định các yếu tố về thái độ của họ đối với sự bền vững, trong đó quy mô kinh doanh dường như được nghiên cứu thường xuyên (Dewhurst vàThomas, 2003). Phần lớn các doanh nghiệp du lịch có quy mô nhỏ hoặc trung bình, nhưng về mặt toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia lớn thống trị và kiểm soát sự phát triển của ngành (Swarbrooke, 1999). Các doanh nghiệp lớn có thể có nhiều khả năng phát triển các chính sách bền vững để đáp ứng với áp lực thị trường và vì lợi ích thương mại (Middleton và Hawkins, 1998). Một nghiên cứu về thái độ đặc biệt nhìn vào các nhà quản lý chuỗi khách sạn ở châu Âu đã được Bohdanowicz và Martinac thực hiện vào năm 2003. Kết quả của họ cho thấy thái độ rất tích cực đối với việc bảo vệ môi trường và thừa nhận tầm quan trọng của môi trường đối với sự phát triển của ngành du lịch. Họ nhấn mạnh tác động đáng kể của ngành khách sạn và tiềm năng của các khách sạn và chuỗi khách sạn lớn để thúc đẩy và hỗ trợ sự bền vững của công ty. Một phát hiện thú
  3. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 317 lợi ích này có thể phân biệt doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh và có thể là nguồn lợi thế cạnh tranh và cơ hội thị trường mới (Hitchcock và Willard, 2009; Landrum và Edwards, 2009). Phát hiện của Kirk (1998) cho thấy lợi ích quan hệ công chúng có xếp hạng thái độ tích cực nhất, theo sau là ‘Cải thiện mối quan hệ với cộng đồng địa phương’ và ‘Tiếp thị’. Các phân tích cho thấy các hiệp hội thú vị với các đặc điểm của khách sạn. Các khách sạn lớn, khách sạn có phân loại từ 3 đến 5 sao và các khách sạn theo chuỗi có nhiều khả năng nhìn thấy lợi ích quan hệ công chúng tích cực (Kirk, 1998) so với các khách sạn nhỏ, 2 sao được phân loại và độc lập. 4.3 Sự hài lòng của nhân viên Thông qua quản lý nguồn nhân lực bền vững, nhiều khả năng cảm thấy được khen thưởng xứng đáng, có giá trị, tự hào về công việc của họ và có một hình ảnh bản thân tích cực hơn. Chất lượng dịch vụ nhưng sức khỏe và năng suất cũng có khả năng cải thiện thông qua các hoạt động kinh doanh và phát triển bền vững hơn. Việc hướng tới sự bền vững đòi hỏi một sự thay đổi tích cực trong văn hóa doanh nghiệp. Trong bối cảnh này, văn hóa có thể được mô tả như là động lực tiềm ẩn của hành vi của mọi người cả trong và ngoài tổ chức.Niềm tin văn hóa, suy nghĩ và hành vi cần phải phù hợp với khái niệm và giá trị của các hoạt động kinh doanh bền vững để nỗ lực thành công. Quản lý nguồn nhân lực bền vững và văn hóa doanh nghiệp bền vững có thể giúp công ty thu hút và giữ chân những nhân viên giỏi nhất hiện nay là một vấn đề nghiêm trọng trong ngành du lịch và khách sạn (Hitchcock và Willard, 2009). 4.4 Nhu cầu của người tiêu dùng Nhu cầu của người tiêu dùng là lợi ích gây tranh cãi nhất của các hoạt động kinh doanh bền vững. Mối quan tâm về môi trường và xã hội ngày càng ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi nếu chủ nghĩa tiêu dùng “xanh” này đã đến với ngành du lịch (Miller và Twining-Ward, 2005). Một lần nữa, những khó khăn trong việc xác định du lịch bền vững và thực hành kinh doanh bền vững buộc người tiêu dùng phải lựa chọn dựa trên đánh giá cá nhân và kiến ​​thức hạn chế. Các sản phẩm du lịch bền vững thường không có sẵn và được chỉ định rõ ràng. Do đó, thông tin và công bố lớn hơn về tác động của các sản phẩm là cần thiết (Miller và Twining-Ward, 2005). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự nhận thức ngày càng tăng đối với các vấn đề xã hội nói chung cuối cùng sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm du lịch và du lịch bền vững (Sloan và cộng sự, 2009). Tuy nhiên, mặc dù mọi người có thể nhận thức được tác động tiêu cực của du lịch, họ không sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm thân thiện với môi trường (Dodds và Joppe, 2005). Các chủ doanh nghiệp không tin rằng người tiêu dùng sẽ bị thu hút bởi hiệu quả môi trường của một doanh nghiệp và cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định nhu cầu thực tế của người tiêu dùng đối với các hoạt động kinh doanh bền vững trong ngành lưu trú (Sloan và cộng sự, 2009). 5. Rào cản đối với việc thực hiện các hoạt động kinh doanh bền vững Các doanh nghiệp có thể bị hạn chế trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh bền vững bởi các yếu tố bên ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của họ như chính sách của chính phủ hoặc thái độ của các bên liên quan và sự thiếu quan tâm của họ. Nhưng những trở ngại nội bộ trong công ty có thể tồn tại. Rào cản chính với việc thực hiện các hoạt động kinh doanh bền vững được nêu ra là các chi phí liên quan, sự phức tạp của khái niệm và thiếu thông tin và hỗ trợ (Bohdanowicz và Martinac, 2003).
  4. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 319 TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Ajzen, I. and Fishbein, M. (1980) Understanding attitudes and predicting behaviour, Englewood Cliffs: Prentice Hall. 2. Bansal, P. (2002) ‚The Corporate Challenges of Sustainable Development’, The Academy of Management Executive, vol. 16, no. 2, pp. 122-131. 3. Berry, S. andLadkln, A. (1997) ‘Sustainable tourism: a regional perspective’. Tourism Management, vol. 18, no. 7, pp. 433-440. 4. Bohdanowicz, P. and Martinac, I. (2003) ‘Attitudes towards sustainability in chain hotels - Results of a European survey7, Conference Proceedings, CIB 2003 International Conference on smart and sustainable built environment, Brisbane. 5. Bohdanowicz, P.; Simanic, B. and Martinac, I. (2005) ‘Sustainable Hotles - Environmental Reporting According to Green Globe 21, Green Globes Canada /GEM UK, IHEI Benchmarkhotel and Hilton Environmental Reporting’, Conference Proceedings, The 2005 World Sustainable Building Conference, Tokyo. 6. Bramwell, B. and Alletorp, L. (2001) ‘Attitudes in the Danish Tourism Industry to the Roles of Business and Government in Sustainable Tourism’, International Journal of Tourism Research, vol. 3, pp. 91-103. 7. Butler, R. (1998) ‘Sustainable tourism - looking backwards in order to progress?’, in Hall, M. and Lew, A. (ed.) Sustainable Tourism: A geographical perspective, Harlow: Addison Wesley Longman. 8. Butler, J. (2008) The Compelling “Hard Case” for “Green” Hotel Development’, Cornell Hospitality Quarterly, vol. 49, no. 3, pp. 234-244. 9. Cannon, T. (1994) Corporate responsibility: a textbook on business ethics, governance, environment: roles and responsibilities, London: Pitman. 10. Clarke, J. (1997) ‘A Framework of Approaches to Sustainable Tourism’, Journal of Sustainable Tourism, vol. 5, no. 3, pp. 224-233. 11. Dewhurst, H. and Thomas, R. (2003) ‘Encouraging Sustainable Business Practices in a Non-regulatory Environment: A Case Study of Small Tourism Firms in a UK National Park’, Journal of Sustainable Tourism, vol. 11, no. 5, pp. 383-403.