Giáo án Tổng quan du lịch và khách sạn

- Tổng quan du lịch và khách sạn là môn học thuộc nhóm kiến thức cơ sở ngành trong chương trình khung đào tạo trình độ trung cấp “Kỹ thuật chế biến món ăn”.

- Môn học lý thuyết cơ bản trong nghề phục vụ du lịch nói chung và nghề kỹ thuật chế biến món ăn nói riêng. Là môn học lý thuyết, đánh giá kết thúc môn học bằng hình thức kiểm tra hết môn.

pdf 153 trang xuanthi 03/01/2023 600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án Tổng quan du lịch và khách sạn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_an_tong_quan_du_lich_va_khach_san.pdf

Nội dung text: Giáo án Tổng quan du lịch và khách sạn

  1. gồm các phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành và của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia vào phục vụ du lịch như thương mại, dịch vụ, Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và tài nguyên du lịch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng đến công suất, thể loại, thứ hạng của hầu hết các thành phần cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch là cơ sở xác định công suất các công trình phục vụ du lịch. Sức hấp dẫn của chúng ảnh hưởng tới thứ hạng của các cơ sở này. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần với những chức năng khác nhau và có ý nghĩa nhất định đối với việc tạo ra sản phẩm du lịch. Với mục đích đáp ứng cho việc tham quan du lịch trên quy mô lớn, cần phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng như các khách sạn, nhà hàng, cửa hiệu, trạm cung cấp xăng dầu, trạm y tế, nơi vui chơi thể thao, Khâu trung tâm của cơ sở vật chất kỹ thuật là các cơ sở phục vụ cho việc ăn nghỉ của khách và các cơ sở vui chơi giải trí. Việc đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phải căn cứ vào ba nhóm tiêu chí chủ yếu: (1) Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho nghỉ ngơi du lịch; (2) Đạt hiệu quả kinh tế tối ưu trong quá trình xây dựng và khai thác; (3) Thuận tiện cho việc đi lại của khách. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chủ yếu bao gồm các cơ sở lưu trú, cơ sở vui chơi giải trí, hệ thống các nhà hàng ăn uống và cửa hàng dịch vụ thương mại; các cơ sở y tế, thể thao; các công trình văn hóa, thông tin, Câu hỏi ôn tập và thảo luận chương 1 Câu 1. Trình bày mối quan hệ giữa du lịch và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội khác? Câu 2. Trình bày các điều kiện để phát triển du lịch? 130
  2. khoảng thời gian dài (có thể là hàng tuần hoặc hàng tháng nhưng không lấy đó làm nơi cư trú thường xuyên), có thể có nhà hàng. Khách sạn có thể hoạt động quanh năm hoặc theo mùa. Theo quan điểm của Hiệp hội khách sạn Mỹ: Khách sạn là nơi mà bất kỳ ai cũng có thể trả tiền để thuê phòng qua đêm. Khách sạn phải bao gồm: phòng ngủ, phòng khách cùng với các trang thiết bị và một hệ thống dịch vụ bổ sung và dịch vụ ăn uống nhằm đáp ứng nhu cầu của khách. Theo quan điểm của Hiệp hội khách sạn Bungari: Khách sạn là cơ sở phục vụ cho mọi khách du lịch, nó sản xuất, bán và phục vụ các dịch vụ hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch về lưu trú, nghỉ ngơi, ăn uống, chữa bệnh và giải trí phối hợp với mục đích, động cơ của chuyến đi. Chất lượng và tính đa dạng của các dịch vụ và hàng hóa có trong khách sạn xác định thứ hạng của khách sạn và mục đích kinh doanh của khách sạn là lợi nhuận. Tổng cục du lịch Việt Nam quan niệm: Khách sạn là công trình kiến trúc được xây dựng độc lập, có quy mô từ 10 buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ cần thiết phục vụ khách du lịch. Do các quốc gia đứng trên các góc độ khác nhau mà khái niệm về khách sạn cũng rất khác nhau. Mặt khác, nó còn tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm hoạt động của từng quốc gia. Vì vậy, việc đưa ra một khái niệm thống nhất về khách sạn là không dễ. Một cách tiếp cận chung nhất có thể đưa ra đó là với cách tiếp cận khách sạn là một loại hình cơ sở lưu trú du lịch: Khách sạn là một loại hình cơ sở lưu trú du lịch mang tính phổ biến đặc trưng nhất trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch được kiến trúc, xây dựng mang tính hệ thống đồng bộ. Nó là cơ sở lưu trú có quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, chất lượng và chủng loại sản phẩm đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định, nhằm phục vụ nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách trong thời gian lưu trú để thu lợi nhuận. Với cách tiếp cận này, khách sạn mang những đặc điểm đặc trưng sau: - Khách sạn là loại hình cơ sở lưu trú phổ biến nhất trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch. 132
  3. hoan nghênh của du khách. Cuối thế kỷ XIX nhà hàng ở Mỹ đã dần dần trở thành nhà hàng tốt nhất trên thế giới. Nhà hàng đáng kỉ niệm nhất thời bấy giờ là nhà hàng Tremont khánh thành năm 1829 ở Boston. Nó được tôn sùng là nhà hàng hiện đại đầu tiên, xác lập tiêu chuẩn rõ ràng cho toàn bộ ngành nhà hàng mới trỗi dậy và thúc đẩy sự phát triển rầm rộ nhà hàng hiện đại ở các nơi trong nước Mỹ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước Mỹ đã xuất hiện một số nhà hàng sang trọng như Nhà hàng Quảng Trường ( Plaza) ở New York và nhà hàng do Caeser Rapz khai trương là tiêu biểu, các nhà hàng này sùng thượng sự xa hoa, sang trọng để thích ứng với nhu cầu xã hội thượng lưu. - Thời kỳ nhà hàng thương nghiệp Trong thế kỷ XX ngành nhà hàng phát triển lúc lên lúc xuống, trải nhiều thăng trầm. Nhưng đói tượng phục vụ của nó chuyển từ xã hội thượng lưu sang đại chúng hóa, phương thức kinh doanh quá độ từ xa hoa sang thực dụng đều nói lên tính chất thương nghiệp hiện đại của nó. Trong đó nhân vật tiêu biểu nổi tiếng là Ellesworth M.Statler ở Mỹ đàu thế kỷ XX. Năm 1908, nhà hàng M.Statler ở Bufflo do ông chủ trì thiết kế trở thành cột mốc cảu nhà hàng mang tính thương nghiệp hiện đại trên thế giới. Nhà hàng M.Statler thiết kế cho khách hàng “chỉ 1 USD là có thể thuê phòng khách có cả nhà tắm” được đông đảo những người lữ hành thương nghiệp coi trọng Ellesworth M.Statler còn đưa phương pháp quản lý khoa học vào trong thiết kế nhà hàng, kết hợp tính thực dụng, tính thoải mái và chất lượng phục vụ của nhà hàng với nhau, chú trọng tới giá, hạ giá thuê phòng thoải mãn nhu cầu ngày một tăng cảu người lữ hành thương nghiệp. Cũng vì thế mà Ellesworth M.Statler được coi là “ người cha của quản lý nhà hàng hiện đại”. Thời kỳ này khách sạn Ôtô cũng phát triển lên cùng sự phát triển của công nghiệp ôtô. Có điều khách sạn ôtô thời kỳ đàu rất sơ sài. Năm 1025 ở vùng San Luis Alisix bang California xuất hiện khách sạn “Marton” nghe nói khách sạn này là kahcsh sạn đàu tiên sử dụng tên gọi ô tô (motel). Mười năm sau tuy khách sạn sập tiệm nhưng nhiều khách sạn ô tô khac đã ra đời khắp nơi trên nước Mỹ. - Thời kỳ khách sạn kiểu mới hiện đại Sau chiến tranh thế giới thứ 2, sự phát triển kinh tế và tăng trưởng dân số trên phạm vi toàn cầu sự phát triển thêm một bước của công nghiệp hóa đã tăng thêm thu nhập có thể chi phối đông đảo nhân dân, ô tô và máy bay trở thành phương tiện giao thông du lịch 134
  4. ra khách sạn còn mang lại rất nhiều cơ hội tạo công ăn việc làm gián tiếp cho các ngành nghề liên quan cung cấp vật tư cho khách sạn. Mỗi phòng khách của khách sạn du lịch khu vực Âu Mỹ có thể cung cấp cơ hội giải quyết công ăn việc làm trực tiếp cho 1,5 người và cung cấp 5 chỗ làm gián tiếp. - Khách sạn là người thúc đẩy quan trọng cho sự phát triển kinh tế khu vực Sự phát triển của khách sạn có thể kéo theo sự phồn vinh của các ngành nghề liên quan tới nó. Việc xây dựng kinh doanh khách sạn đã cung cấp thị trường cho ngành kiến trúc và chế tạo. Còn thực phẩm thức uống và các hàng tiêu dùng khác của khách sạn được mua từ nông thôn, ngành thực phẩm uống và của các xí nghiệp cung ứng nước, than, điện do đó sự phát triển của khách sạn có thể thúc đẩy sự phát triển của kinh tế địa phương. - Khách sạn là vật thu hút du lịch đặc sắc Ngày nay, rất nhiều khách sạn đều có phong cảnh độc đáo về mặt kiến trúc, tạo hình, sắc thái phục vụ, bản thân nó đã trở thành vật thu hút để hấp dẫn nguồn khách, từ đó thúc đẩy sự phát triển cảu ngành du lịch. Trình độ phát triển của khách sạn du lịch đánh dấu trình độ phát triển của sự nghiệp du lịch nước tiếp đãi, cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế quốc dân và trình độ văn minh xã hội của quốc gia đó. Thiết bị của khách sạn có hoàn thiện không, mức độ thiết bị cao hay thấp, chất lượng dịch vụ tố hay xấu không những ảnh hưởng đến tuyến du lịch của du khách đồng thời còn ảnh hưởng tới sự đánh giá của anh ta đối với hình tượng chung của một thành phố, một khu vực hay thậm chí của một quốc gia, mà cũng chiếm vị trí nhất định trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2.Phân loại khách sạn 2.1 Phân loại * Phân loại theo vị trí - Khách sạn thành phố (Khách sạn công vụ) Khách sạn thành phố được xây dựng ở trung tâm thành phố lớn, các trung tâm đô thị hoặc trung tâm đông dân cư nhằm phục vụ các đối tượng khách đi vì các mục đích công vụ, tham gia vào các hội nghị hội thảo, thể thao, thăm thân, mua sắm hoặc tham quan văn hóa. Các khách sạn này hoạt động quanh năm. Ở Việt Nam, các khách sạn thành 136
  5. Khách sạn sân bay được xây dựng ở gần các sân bay quốc tế lớn. Đối tượng khách của loại khách sạn này là những hành khách của hãng hàng không dừng chân quá cảnh tại các sân bay quốc tế do lịch trình bắt buộc hoặc vì bất kỳ một lý do đột xuất nào khác. Giá phòng của đa số các khách sạn sân bay trên thế giới nằm ngay trong giá trọn gói của hãng hàng không. Hình 2: Khách sạn sân bay quốc tế Nội Bài * Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ - Khách sạn sang trọng Khách sạn sang trọng là khách sạn có thứ hạng cao nhất, tương ứng với khách sạn 5 sao ở Việt Nam. Là khách sạn quy mô lớn, được trang bị bởi những trang thiết bị tiện nghi đắt tiền, sang trọng, được trang hoàng đẹp. Cung cấp mức độ cao nhất về các dịch vụ bổ sung đặc biệt là các dịch vụ bổ sung tại phòng, dịch vụ giải trí ngoài trời, dịch vụ thẩm mỹ, phòng họp Khách sạn này có diện tích của các khu vực sử dụng chung rất rộng, bãi đỗ lớn và bán sản phẩm của mình với mức giá bán cao nhất trong vùng. - Khách sạn với dịch vụ đầy đủ Khách sạn dịch vụ đầy đủ là những khách sạn bán sản phẩm ra với mức giá cao thứ hai trong vùng. Khách sạn loại này tương ứng với khách sạn có thứ hạng 4 sao ở Việt Nam. Thị trường khách của khách sạn này là đoạn thị trường có khả năng thanh toán tương đối cao. Ngoài ra, các khách sạn cung cấp dịch vụ đầy đủ thường phải có bãi đỗ 138
  6. Là những khách sạn có mức giá bán sản phẩm lưu trú ra ngoài thị trường nằm trong khoảng từ nấc thứ 85 trở lên trên thước đo. Như vậy, hai tiêu chí phân loại khách sạn theo mức cung cấp dịch vụ và theo mức giá luôn phải được xem xét đồng thời với nhau. - Khách sạn có mức giá cao Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá tương đối cao, nằm trong khoảng từ phần thứ 70 – 85 trên thước đo. + Khách sạn có mức giá trung bình Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá trung bình, nằm trong khoảng từ 40 – 70 trên thước đo. - Khách sạn có mức giá bình dân Khách sạn loại này bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá tương đối thấp, nằm trong khoảng từ phần thứ 20 – 40 trên thước đo. - Khách sạn có mức giá thấp nhất Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá thấp nhất, nằm trong khoảng từ phần thứ 20 trở xuống trên thước đo. *Phân loại theo quy mô của khách sạn Dựa vào số lượng buồng ngủ theo thiết kế của các khách sạn mà người ta phân khách sạn ra thành các loại sau đây: - Khách sạn quy mô lớn Là những khách sạn có thứ hạng 5 sao nên hiện nay chúng tương ứng với số lượng buồng thiết kế là từ 200 trở lên. - Khách sạn quy mô trung bình Là những khách sạn có từ 50 buồng thiết kế trở lên đến cận 200 buồng. - Khách sạn quy mô nhỏ Các khách sạn quy mô nhỏ nằm ở giới hạn dưới của bảng phân loại theo tiêu chí trên. * Phân loại theo hình thức sử hữu và quản lý - Khách sạn tư nhân 140
  7. này là bên mua đã mua lại của bên bán bí quyết điều hành quản lý và được hưởng một số đặc quyền trong kinh doanh do các tập đoàn khách sạn cung cấp. + Khách sạn hợp đồng quản lý Là khách sạn tư nhân hoặc khách sạn cổ phần về sở hữu. Khách sạn được điều hành quản lý bởi một nhóm các nhà quản lý do chủ đầu tư thuê của một tập đoàn khách sạn trên cơ sở của một hợp đồng gọi là hợp đồng quản lý. - Khách sạn liên kết hỗn hợp: là khách sạn liên kết hợp các hình thức trên. 2.2. Xếp hạng khách sạn 2.2.1 Ý nghĩa của việc xếp hạng khách sạn Tất cả các quốc gia phát triển du lịch trên thế giới đều cần thiết phải tiến hành xếp hạng khách sạn. Tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn là những yêu cầu, những điều kiện cần thiết mà các cơ sở khách sạn phải đảm bảo. Từ xa xưa, người ta đã nhận thức được tầm quan trọng của tiêu chuẩn xếp hạng các cơ sở lưu trú. Ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại và đế chế La Mã, việc phân định các cơ sở nghỉ ngơi theo hạng thành loại tương xứng với trung ương và địa phương kiểm tra một cách có hệ thống toàn bộ dịch vụ phục vụ khách của các cơ sở này. Ý nghĩa quan trọng của tiêu chuẩn xếp khách sạn xuất phát từ những điểm sau đây: - Tiêu chuẩn này được dùng làm cơ sở để xây dựng các tiêu chuẩn định mức cụ thể khác như: tiêu chuẩn xây dựng thiết kế khách sạn, tiêu chuẩn trang thiết bị tiện nghi trong từng bộ phận của khách sạn, tiêu chuẩn vệ sinh - Tiêu chuẩn này cùng với hệ thống tiêu chuẩn cụ thể sẽ là cơ sở để xác định hệ thống giá cả dịch vụ trong từng loại, hạng khách sạn. - Làm cơ sở để tiến hành xếp hạng khách sạn hiện có, quản lý và kiểm ta thường xuyên các khách sạn này đảm bảo thực hiện các điều kiện, yêu cầu đã quy định trong tiêu chuẩn đặt ra. - Thông qua tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn để chủ đầu tư xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật, cấp vốn đầu tư cho việc xây dựng khách sạn mới, cải tạo hoặc nâng cấp các khách sạn hiện có 142
  8. (PATA) của Tổ chức du lịch thế giới kết hợp tham khảo nhiều chỉ thị, thể lệ, quy định xếp hạng khách sạn của một số nước có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiêu chuẩn phân loại, xếp hạng khách sạn du lịch Việt Nam bao gồm những nội dung sau: Phân loại khách sạn du lịch thành 3 loại: - Khách sạn trung tâm du lịch - Khách sạn ở điểm du lịch - Khách sạn ở điểm nghỉ Về xếp hạng, khách sạn du lịch được xếp theo 5 hạng: từ 1 sao đến 5 sao. Yêu cầu xếp hạng có 5 nhóm yêu cầu: 1. Yêu cầu về vị trí, kiến trúc gồm 7 điều quy định lớn. 2. Yêu cầu về trang thiết bị, tiện nghi phục vụ gồm 7 điều quy định lớn. 3. Yêu cầu về các dịch vụ trong khách sạn và mức độ phục vụ: gồm 3 điều quy định lớn. 4. Yêu cầu về nhân viên phục vụ gồm 2 điều quy định lớn. 5. Yêu cầu về vệ sinh gồm 2 điều quy định lớn. Như vậy, ngoài 4 nhóm yêu cầu cơ bản đầu tiên thường được nhiều nước áp dụng, Việt Nam đã chọn thêm một nhóm yêu cầu thứ năm là: yêu cầu về vệ sinh của khách sạn. Trong đề án xếp hạng khách sạn của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) phân vùng Châu Á – Thái Bình Dương (PATA) có đề cấp rất cụ thể và chú trọng nhiều tới yêu cầu vệ sinh trong khách sạn. Cụ thể là yêu cầu bảo quản khách sạn, vệ sinh chống côn trùng, vệ sinh nước rửa, nước uống, bảo vệ sức khỏe cho khách và cán bộ công nhân viên phục vụ, hệ thống vệ sinh riêng cho cán bộ công nhân viên phục vụ. Việt Nam là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới và là thành viên của tổ chức du lịch thế giới thuộc tiểu vùng châu Á – Thái Bình Dương, vì vậy vấn đề vệ sinh phòng dịch, bảo vệ sức khỏe cho khách phải được đặt ra trong tiêu chuẩn. Ngoài 2 phần chính nói trên, trong tiêu chuẩn còn kèm theo 3 biểu phụ lục về trang thiết bị nội thất buồng khách sạn, trang thiết bị nội thất phòng vệ sinh khách sạn, chất lượng trang thiết bị của từng khách sạn. 3. Cơ cấu tổ chức trong 1 khách sạn 144
  9. khách sạn, bao gồm: ðiện, cơ khí, hệ thống sưởi, máy điều hòa không khí, bơm, thực hiện những sửa chữa nhỏ và tu bổ trang thiết bị. Trong bộ phận phòng có rất nhiều công việc phụ thuộc lẫn nhau, vì thế rất cần sự điều phối chặt chẽ các hoạt động giữa các đơn vị nhỏ. Giữa bộ phận tiền sảnh (Front-office) và bộ phận đặt phòng có mối liên hệ mật thiết. Mỗi ngày tổ đặt phòng (Reservations) phải thông báo trước cho bộ phận tiền sảnh (Front- office) số phòng trống để bảo đảm việc luôn cập nhật hóa số lượng phòng trong tình trạng sẵn sàng có thể cho thuê. Ngược lại, bộ phận tiền sảnh (Front-office) phải cho tổ đặt phòng biết số khách tự đến thuê phòng (họ là những người không đặt phòng trước). Tương tự như thế, giữa bộ phận tiền sảnh (Front-office) và bộ phận phục vụ phòng (Housekeeping) cũng có những mối liên hệ. Các thông tin về tình hình phòng ốc phải có hai chiều: Khi khách làm thủ tục trả phòng (check-out), bộ phận tiền sảnh (front-office) phải thông báo cho bộ phận phục vụ phòng (housekeeping) để bộ phận này lau dọn phòng. Mỗi khi căn phòng được lau dọn xong, Housekeeping phải thông báo cho bộ phận tiền sảnh để họ có thể cho khách thuê. ðó là ví dụ về hình thái quan hệ hỗ tương. Các mắc xích khác trong bộ phận phòng minh họa cho hình thái phụ thuộc liên tục, diễn ra khi đầu ra của một đơn vị kia. Cũng như thế, bộ phận phòng không thể cung cấp một phòng đủ tiêu chuẩn cho khách nếu bộ phận giặt ủi không cung cấp đủ khăn sạch hoặc drap trải giường. Một ví dụ khác liên quan đến sự truyền đạt cho nhau những thông tin từ bộ phận này qua bộ phận khác: Bộ phận kỹ thuật không thể nào thay thế một công tắc đèn bị hỏng trong phòng khách nếu bộ phận các tầng phòng không thông báo. ðó là những ví dụ mối phụ thuộc hỗ tương và liên tục tồn tại giữa các đơn vị riêng lẻ trong bộ phận phòng. ðể quản lý một cách hiệu quả trong trường hợp có những mối phụ thuộc trên, đòi hỏi kế hoạch, thủ tục, chương trình hành động phải được tiêu chuẩn hóa và thời gian được quy định rõ ràng. Việc phối hợp giữa các đơn vị ấy phải thường xuyên liên hệ trực tiếp với nhau. 3.2. Các bộ phận trong khách sạn Được phân chia, bố trí những công việc với chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng chung quy lại vẫn nhằm mục đích chung là đáp ứng, làm hài lòng nhu cầu của 146
  10. phòng, các thiết bị, vật dụng, sản phẩm khác trong phòng khi làm vệ sinh; nhận và giao các dịch vụ phục vụ khách, báo cho bp lễ tân các vấn đề có liên quan; nắm được tình hình khách thuê phòng. Bộ phận nhà hàng Bộ phận nhà hàng là bộ phận mang lại doanh thu cao cho khách sạn chỉ sau bộ phận buồng phòng. Bộ phận này thực hiện các công việc liên quan đến ăn uống tại khách sạn, được chia ra làm 2 bộ phận nhỏ: bp bếp và bp bàn bar Chức năng: cung cấp thức ăn và đồ uống cho khách hàng; hoạch toán chi phí tại bộ phận Nhiệm vụ: tổ chức hoạt động kinh doanh ăn uống gồm 3 hoạt động chính: chế biến, lưu thông và tổ chức phục vụ dịch vụ ăn uống tại khách sạn; phục vụ ăn uống cho nhân viên khách sạn; cung cấp các dịch vụ bổ sung như: tổ chức tiệc, buffet cho hội thảo, tổ chức tiệc theo yêu cầu của khách. Bộ phận kế toán - tài chính Chức năng: quyết định các chiến lược về tài chính; tìm vốn, nguồn vốn cho khách sạn. Theo dõi, quản lý và báo cáo sổ sách thu, chi, công nợ Nhiệm vụ: lập chứng từ trong việc hình thành và sử dụng vốn; lập chứng từ xác định kết quả kinh doanh của từng bộ phận và của toàn khách sạn; lập báo cáo tài chính theo tháng, quý, năm. Quản lý và giám sát thu, chi. Bộ phận nhân sự Chức năng: quản lý, tuyển dụng nhân sự Nhiệm vụ: tổ chức, sắp xếp cán bộ, nhân viên; ban hành các thể chế, quy chế làm việc; theo dõi, đánh giá nhân viên các bộ phận và tiếp nhận ý kiến từ cấp trên, quản lý trực tiếp nhân viên. Bộ phận kĩ thuật Chức năng: quản lý, giám sát các hệ thống kỹ thuật và thiết bị trong khách sạn đảm bảo vận hành tốt, không gặp sự cố, trục trặc trong quá trình hoạt động Nhiệm vụ: theo dõi, bảo trì thường xuyên các thiết bị trong khách sạn; sửa chữa các công cụ, thiết bị khi có yêu cầu của bộ phận khác; thực hiện công việc trang trí sân 148
  11. Khách sạn hay bất cứ doanh nghiệp nào cũng là một khối thống nhất, là sự kết nối, hợp tác chặt chẽ giữa các bộ phận, thành viên trong khách sạn. Trong bài viết này, tôi sẽ chia sẻ những mối quan hệ hợp tác giữa các bộ phận trong khách sạn. 3.3.1.Mối quan hệ giữa lễ tân và buồng phòng Để hoạt động kinh doanh hiệu quả cao, bộ phận lễ tân và bộ phận buồng phòng phải phối hợp ăn ý với nhau. Hàng ngày bộ phận lễ tân phải thông báo với bộ phận buồng phòng về tình hình khách hàng chuẩn bị đến, khách hàng chuẩn bị rời đi để bộ phận phòng chủ động dọn vệ sinh. Còn bộ phận buồng phải thông báo nhân viên lễ tân tình hình của buồng và vấn đề của khách để bộ phận lễ tân xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Mối quan hệ nhịp nhàng đó sẽ góp phần làm tối đa hóa công suất buồng và tạo nên ấn tượng tốt trong lòng khách hàng. 3.3.2.Mối quan hệ giữa bộ phận nhà hàng và bếp Một trong những dịch vụ mang lại doanh thu lớn cho khách sạn là nhà hàng ẩm thực. Để phục vụ tốt cho khách hàng, cần có sự phối hợp nhịp nhàng, ăn ý của bộ phận nhà hàng và bộ phận bếp. Khi thực khách đặt món ăn với bộ phận nhà hàng, bộ phận này có trách nhiệm chuyển yêu cầu tới bộ phận bếp để chuẩn bị món ăn cho khách. Sau khi nấu và trình bày món ăn xong, bộ phận bếp có trách nhiệm thông báo cho bộ phận nhà hàng để chuyển đồ ăn nên cho khách. 3.3.3.Mối quan hệ giữa bộ phận nhà hàng và kinh doanh Bộ phận kinh doanh khi nhận được đơn đặt hàng của khách cần thông báo cho bộ phận nhà hàng để chuẩn bị nguyên liệu, nhân sự, đầu bếp, đặc biệt là dịp sự kiện như cưới hỏi, sinh nhật, hội nghị, Nếu khách có yêu cầu đặt bàn tại khách sạn, bộ phận kinh doanh có trách nhiệm tiếp nhận những yêu cầu của khách hàng và gửi yêu cầu đó cho bộ phận nhà hàng thực hiện. Hàng ngày, bộ phận nhà hàng sẽ chuyển hóa đơn, chứng từ, ghi nợ, những khoản tiền thu đến bộ phận kế toán và những phản hồi, nhận xét của khách hàng đến bộ phận kinh doanh để bộ phận kinh doanh cảm ơn khách hàng. 3.3.4.Mối quan hệ giữa bộ phận kế toán và lễ tân Hàng ngày các khoản thanh toán và hóa đơn được bộ phận lễ tân kiểm kê và giao lại cho bộ phận kế toán. Bộ phận kế toán sẽ dựa trên những hóa đơn đó để lập báo cáo doanh thu, 150