Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 11: Đo lường chi phí sinh hoạt

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là thước đo tổng chi phí mà một người tiêu dùng điển hình bỏ
ra để mua hàng hóa và dịch vụ. Hàng tháng Cục thống kê lao động thuộc Bộ lao động tính
toán và thông báo chỉ số giá tiêu dùng. Trong phần này, chúng ta thảo luận cách tính chỉ
số giá tiêu dùng và những vấn đề nảy sinh trong quá trình đó. 
pdf 8 trang xuanthi 28/12/2022 2920
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 11: Đo lường chi phí sinh hoạt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nguyen_ly_kinh_te_hoc_chuong_11_do_luong_chi_phi.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 11: Đo lường chi phí sinh hoạt

  1. khác biệt của chỉ số này so với chỉ số điều chỉnh GDP - chỉ tiêu khác về mức giá chung của nền kinh tế mà chúng ta đã đề cập đến trong chương trước. Chỉ số giá tiêu dùng được tính toán như thế nào Khi Cục thống kê lao động tính toán chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát, họ thường sử dụng số liệu về giá cả của hàng nghìn hàng hóa và dịch vụ. Để biết chính xác những chỉ số thống kê này được thiết lập như thế nào, chúng ta hãy xem xét một nền kinh tế đơn giản trong đó người tiêu dùng chỉ mua hai hàng hóa - xúc xúc và bánh hamburger. Bảng 1 trình bày năm bước mà Cục thống kê lao động phải trải qua. Xác định giá cả. Bước thứ hai trong quá trình tính toán chỉ số giá tiêu dùng là xác định giá cả của mỗi hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng tại mỗi thời điểm. Bảng này trình bày giá xúc xích và hamburger trong 3 năm khác nhau. Tính chi phí của giỏ hàng. Bước thứ ba là sử dụng số liệu về giá cả để tính chi phí của giỏ hàng hóa và dịch vụ tại các thời điểm khác nhau. Trong bảng cũng trình bày phép tính này trong cả 3 năm. Chú ý rằng chỉ có giá cả trong phép tính này là thay đổi. Bằng cách giữ giỏ hàng hóa và dịch vụ không đổi (4 xúc xích và 2 hamburger), chúng ta có thể tách được ảnh hưởng của sự biến động giá cả ra khỏi ảnh hưởng của sản lượng nếu nó thay đổi trong cùng thời kỳ đó. Chọn năm gốc và tính chỉ số. Bước thứ tư là quyết định chọn một năm nào đó làm năm gốc - năm được sử dụng làm mốc để so sánh với các năm khác. Để tính chỉ số, giá của giỏ hàng hóa và dịch vụ trong từng năm sẽ được chia cho giá của giỏ hàng hóa và dịch vụ đó trong năm gốc và tỷ số này sau đó được nhân với 100. Kết quả thu được chính là chỉ số giá tiêu dùng. Ví dụ trong bảng 1 chọn năm 2001 làm năm gốc. Trong năm đó, giỏ hàng xúc xích và hamburger có chi phí là 8 đô la. Do vậy, giá của giỏ hàng trong tất cả các năm được chia cho 8 đô la và nhân với 100. Chỉ số giá tiêu dùng là 100 trong năm 2001. (chỉ số này luôn bằng 100 trong năm gốc) Chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2002 là 175. Điều này hàm ý giá của giỏ hàng trong năm 2002 bằng 175% giá của nó trong năm gốc. Hay nói cách khác, giỏ hàng hóa có chi phí là 100 đô la trong năm gốc sẽ có chi phí là 175 đô la trong năm 2002. Tương tự, chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2003 là 250, tức là mức giá trong năm 2003 bằng 250% mức giá trong năm gốc. Tính tỷ lệ lạm phát. Bước thứ năm, bước cuối cùng, là sử dụng chỉ số giá tiêu dùng để tính tỷ lệ lạm phát, tức phần trăm thay đổi của chỉ số giá so với thời kỳ trước. Tức là, tỷ lệ lạm phát giữa hai năm liên tiếp được tính như sau: CPI trong n¨m 2 - CPI trong n¨m 1 L¹m ph¸t trong n¨m 2 = ×100 CPI trong n¨m 1 Trong ví dụ của chúng ta, tỷ lệ lạm phát là 75% trong năm 2002 và 43% trong năm 2003. Mặc dù ví dụ này đã đơn giản hóa thế giới thực bằng cách giả định chỉ có hai hàng hóa, nhưng nó vẫn cho thấy cách tính chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát của Cục thống kê lao động (BLS). Hàng tháng, BLS thu thập và xử lý số liệu về giá của hàng nghìn hàng hóa và dịch vụ khác nhau, sau đó thực hiện năm bước trên và nhờ đó họ xác định được NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 11 – Đo lường chi phí sinh hoạt 2
  2. đương với 75.000 đô la × (166/15,2), hay 819.079 đô la tính bằng đồng đô la năm 1999. Mức lương này cao hơn rất nhiều so với mức lương 200.000 đô la của Tổng thống Clinton (và thậm chí cao hơn mức lương 400.000 đô la mà theo qui định của một điều luật gần đây sẽ được trả cho người kế nhiệm Clinton). Như vậy, có vẻ như Tổng thống Hoover đã có một năm khá thành đạt. Trượt giá Như chúng ta vừa thấy, chỉ số giá được sử dụng để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát khi so sánh các chỉ tiêu tính bằng đô la tại các thời điểm khác nhau. Việc điều chỉnh này được thực hiện trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Khi theo luật định hay hợp đồng, giá trị tính bằng đô la được điều chỉnh tự động để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, người ta nói nó được trượt giá. Ví dụ, nhiều hợp đồng dài hạn giữa doanh nghiệp và tổ chức công đoàn bao gồm điều khoản trượt giá cho một phần hoặc toàn phần tiền lương dựa vào chỉ số giá tiêu dùng. Điều khoản như vậy được gọi là trợ cấp chi phí sinh hoạt, gọi tắt là COLA. COLA tự động làm tăng tiền lương khi chỉ số giá tiêu dùng tăng. Trượt giá cũng là đặc điểm của nhiều đạo luật. Ví dụ, trợ cấp an sinh xã hội được điều chỉnh hàng năm nhằm bù lại sự gia tăng giá cả cho người già. Các mức thuế thu nhập - thuế suất thay đổi theo các mức thu nhập khác nhau - cũng trượt giá theo lạm phát. Tuy nhiên, còn rất nhiều lĩnh vực mà hệ thống thuế không trượt giá theo lạm phát, thậm chí khi điều đó tỏ ra rất cần thiết. Chúng ta sẽ thảo luận những vấn đề này một cách đầy đủ hơn khi bàn về chi phí của lạm phát ở phần sau của cuốn sách này. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa Việc điều chỉnh các biến số kinh tế để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và đôi khi cần tới thủ thuật, khi chúng ta nhìn vào các số liệu về lãi suất. Khi gửi tiền tiết kiệm vào một tài khoản ngân hàng, bạn thu được lãi từ số tiền gửi này. Ngược lại, khi vay tiền của ngân hàng để trả học phí, bạn phải trả lãi cho khoản tiền đã vay. Lãi chính là khoản phải thanh toán trong tương lai cho khoản tiền chuyển giao trong quá khứ. Do vậy, lãi suất luôn gắn với việc so sánh giá trị của tiền tại các thời điểm khác nhau. Để hiểu đầy đủ về lãi suất, chúng ta cần biết cách thức loại trừ ảnh hưởng của lạm phát. Chúng ta hãy xem một ví dụ. Giả sử Sally Saver gửi 1.000 đô la vào một tài khoản ở ngân hàng và nhận được lãi suất hàng năm là 10%. Sau một năm, Sally thu được 100 đô la tiền lãi. Sau đó Sally rút 1.000 đô la. Có đúng là Sally được lợi 100 đô la không so với thời điểm cô gửi tiền vào ngân hàng một năm trước đây? Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa của từ "được lợi". Đúng là Sally có thêm 100 đô la so với trước đây. Nói cách khác, số đô la mà cô có đã tăng 10%. Tuy nhiên, nếu cùng lúc đó giá cả tăng, thì mỗi đô la bây giờ mua được ít hàng hóa hơn so với một năm trước đây. Do vậy, sức mua của cô ta không tăng 10%. Nếu tỷ lệ lạm phát là 4%, thì lượng hàng hóa mà Sally có thể mua được chỉ tăng 6%. Còn nếu tỷ lệ lạm phát là 15%, thì giá cả hàng hóa đã tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của số đô la trong tài khoản của cô. Trong trường hợp đó, sức mua của Sally thực tế đã giảm 5%. Lãi suất mà ngân hàng trả được gọi là lãi suất danh nghĩa, còn lãi suất đã loại trừ lạm phát được gọi là lãi suất thực tế. Chúng ta có thể viết mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực tế và lạm phát như sau: NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 11 – Đo lường chi phí sinh hoạt 4
  3. Lãi suất (% năm) 15 Lãi suất danh nghĩa 10 5 0 - Lãi suất thực tế 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 1998 Hình 3. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. Những con số trên biểu thị lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế trên cơ sở số liệu hàng năm từ năm 1965. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất của tín phiếu kho bạc kỳ hạn ba tháng. Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát (tính bằng chỉ số giá tiêu dùng). Hãy chú ý rằng lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế thường thay đổi cùng chiều với nhau. Hình 3 minh họa cho sự thay đổi của lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa từ năm 1965. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất của các trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng. Lãi suất thực tế được tính bằng cách lấy lãi suất danh nghĩa này trừ tỷ lệ lạm phát - tức phần trăm thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng. Bạn có thể thấy lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa không phải lúc nào cũng biến động cùng chiều. Ví dụ vào cuối những năm 1970, lãi suất danh nghĩa rất cao. Tuy nhiên, do lạm phát cũng rất cao nên lãi suất thực tế lại thấp. Thực tế trong một số năm, lãi suất thực tế âm, bởi vì lạm phát đã làm xói mòn tài khoản tiết kiệm nhanh hơn tốc độ gia tăng của nó nhờ lãi suất danh nghĩa. Ngược lại, vào những năm cuối 1980, lãi suất danh nghĩa thấp. Nhưng do lạm phát cũng rất thấp, nên lãi suất thực tế tương đối cao. Trong các chương tiếp theo, khi nghiên cứu về các nguyên nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất, thì điều quan trọng là chúng ta cần phải nhớ được sự khác biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. Kiểm tra nhanh: Vào năm 1914, Henry Ford trả cho mỗi công nhân của ông 5 đô la một ngày. Nếu chỉ số giá tiêu dùng của năm 1914 là 10 và của năm 1999 là 166, thì số tiền mà Ford trả cho mỗi công nhân sẽ trị giá bao nhiêu khi tính bằng đô la năm 1999? KẾT LUẬN "Một hào không còn đáng giá năm xu nữa," có một lần cầu thủ bóng chày Yogi Berra đã châm biếm như vậy. Trên thực tế, trong suốt lịch sử cận đại, giá trị thực đằng sau đồng năm xu, một hào và đô la không ổn định. Sự gia tăng dai dẳng của mức giá chung đã trở thành phổ biến. Tình trạng lạm phát như vậy đã làm giảm sức mua của các đơn vị tiền tệ theo thời gian. Khi so sánh giá trị của đồng đô la vào các thời điểm khác nhau, điều quan trọng là phải nhớ rằng một đô la ngày nay không còn giống một đô la 20 năm trước đây, hoặc tương tự như vậy nó cũng không giống một đô la sau 20 năm nữa. Chương này đã thảo luận cách tính mức giá chung trong nền kinh tế của các nhà kinh tế và việc họ sử dụng chỉ số giá như thế nào để điều chỉnh các biến số kinh tế nhằm loại trừ lạm NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 11 – Đo lường chi phí sinh hoạt 6
  4. Tỷ lệ lạm phát Inflation rate NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 11 – Đo lường chi phí sinh hoạt 8