Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề phục vụ du lịch ở Thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

Thành phố (TP) Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang có nhiều làng nghề độc đáo thích hợp phát triển
du lịch làng nghề. Thế nhưng, để phát triển làng nghề phục vụ du lịch (PVDL) hiệu quả, cần xác
định các nhân tố ảnh hưởng, từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp để phát triển làng nghề.
Bài viết này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc,
tỉnh Kiên Giang. Kết quả cho thấy có 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở
Phú Quốc theo thứ tự giảm dần là: nguồn nhân lực, vệ sinh môi trường, an toàn và an ninh, sản
phẩm làng nghề và dịch vụ bổ sung, cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ và sản phẩm, cơ sở vật chất
kĩ thuật, sự giúp đỡ của hướng dẫn viên và đầy đủ thuyết minh viên. Kết quả nghiên cứu này là cơ
sở để đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc trong tương lai. 
pdf 12 trang xuanthi 03/01/2023 980
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề phục vụ du lịch ở Thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_cac_nhan_to_anh_huong_den_su_phat_trien_lang_nghe_phu.pdf

Nội dung text: Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề phục vụ du lịch ở Thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

  1. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 du lịch này (Committee of Kien Giang Province, 2012). Các làng nghề ở Phú Quốc bao gồm: làng nghề truyền thống làm nước mắm, làng nghề làm rượu sim, làng nghề trồng hồ tiêu, làng nghề nuôi ngọc trai (Phan & Vo, 2018; Lam, 2018). Mặc dù các làng nghề PVDL ở Phú Quốc trong thời gian qua có nhiều chuyển biến khả quan, thu hút khách du lịch đến tham quan và mua sản phẩm, nhưng việc phát triển làng nghề PVDL ở nơi đây vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế, như: các sản phẩm còn nghèo nàn, vấn đề vệ sinh môi trường ở làng nghề chưa đảm bảo, nguồn khách chưa ổn định, hoạt động còn mang tính tự phát Do đó, để phát triển tốt và nâng cao chất lượng làng nghề nhằm thu hút du khách cũng như tăng khả năng truyền miệng và quay lại ở những lần tiếp theo của họ, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang là rất cần thiết. Nội dung nghiên cứu gồm: 1) phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc; và (2) đề xuất giải pháp nhằm phát triển hiệu quả làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Cơ sở lí thuyết Du lịch làng nghề (DLLN) được hình thành dựa trên mối liên kết giữa ba đối tượng: Làng nghề – chủ thể cung ứng sản phẩm du lịch – đối tượng sử dụng sản phẩm DLLN (Le, 2016). Du lịch làng nghề là loại hình du lịch diễn ra tại các làng nghề đang hoạt động sản xuất các sản phẩm truyền thống nhằm mục đích tham quan, tìm hiểu các giá trị văn hóa và quy trình sản xuất; đây là một hoạt động mạng lại lợi ích về nhiều mặt cho làng nghề như nâng cao, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và góp phần bảo tồn làng nghề cũng như các giá trị văn hóa đặc trưng của địa phương (Truong & Ly, 2018). Như vậy, DLLN là một loại hình du lịch văn hóa được khai thác với mục đích phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa hoặc quá trình sản xuất sản phẩm làng nghề. Qua đó, ngoài việc du khách đến tham quan, trải nghiệm du lịch còn thẩm nhận các giá trị văn hóa vật thể lẫn phi vật thể có liên quan mật thiết đến một làng nghề của một dân tộc nào đó. Để phát triển DLLN thì cần có các điều kiện về (1) giá trị văn hóa làng nghề: công nghệ và kĩ thuật sản xuất; (2) giá trị lịch sử làng nghề: yếu tố tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, cảnh quan thiên nhiên; và (3) mức độ tham gia của cộng đồng: sự trải nghiệm quá trình sản xuất, mua sắm sản phẩm thủ công, thuyết minh cho du khách (Hoang et al., 2008). Bên cạnh đó, DLLN cần phải chú trọng đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển như mức độ hấp dẫn, cơ sở hạ tầng, mức độ an toàn, mức độ bền vững và quy mô (Mai, 2013), cơ sở hạ tầng và vật chất kĩ thuật, chất lượng dịch vụ và sản phẩm, an toàn – an ninh và vệ sinh môi trường, nguồn nhân lực (Truong & Ly, 2018). Đồng thời, sự mong đợi và cảm nhận của du khách đối với DLLN cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và tồn tại của nó, bao gồm giá cả hợp lí, chất liệu sản phẩm, sự thân thiện của người dân, giá trị lịch sử của làng nghề, sự trải nghiệm về nền văn hóa độc đáo (Tapachai & Waryszak, 2000; dẫn theo Hengky, 2015). 1266
  2. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 2.1.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp Dữ liệu thứ cấp của nghiên cứu được thu thập từ sách, báo cáo, các bài báo trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có liên quan đến làng nghề và DLLN. Từ các dữ liệu thu thập được, nhóm nghiên cứu phân tích, đánh giá và tổng hợp nhằm kế thừa thông tin phục vụ cho việc xây dựng mô hình nghiên cứu. 2.1.3. Phương pháp thu thập và xử lí dữ liệu sơ cấp Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn du khách thông qua bảng hỏi với kĩ thuật chọn mẫu thuận tiện. Số lượng được phỏng vấn là 160 du khách nội địa đang thực hiện chuyến du lịch tại các điểm làng nghề ở Phú Quốc, bao gồm: làng nghề truyền thống nước mắm, làng nghề sản xuất rượu sim, làng nghề trồng hồ tiêu và làng nghề nuôi ngọc trai. Tuy nhiên, trong đó có 5 phiếu khảo sát bị loại bỏ do không đầy đủ thông tin, như vậy còn lại tổng cộng 155 mẫu. Thời gian phỏng vấn từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2020. Dữ liệu nghiên cứu được xử lí bằng phần mềm SPSS 20.0 với các kĩ thuật phân tích: thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. 2.2. Kết quả và thảo luận 2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc Kết quả đánh giá độ tin cậy của 6 thang đo có hệ số Cronbach’s α đều trên 0,7 và tất cả các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh ≥ 0,3 (xem Bảng 2). Đồng thời, sau khi kiểm định KMO và Bartlett, KMO = 0,841 và Sig. = 0,000 (Hoang & Chu, 2008). Như vậy, tất cả các biến quan sát đủ điều kiện để phân tích nhân tố khám phá. Bảng 2. Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo Cronbach’s Hệ số tương quan biến- Thang đo Số biến Alpha tổng hiệu chỉnh Cơ sở hạ tầng 5 0,820 0,492 0,714 Cơ sở vật chất kĩ thuật 4 0,817 0,542 0,706 Chất lượng dịch vụ và sản phẩm 6 0,800 0,434 0,682 Con người 7 0,820 0,304 0,757 An toàn và an ninh 4 0,850 0,617 0,758 Vệ sinh môi trường 4 0,829 0,611 0,724 Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2020, n=155 Dựa vào bảng ma trận nhân tố xoay ta có thể kết luận, có 08 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc (xem Bảng 3). Bảng 3. Ma trận điểm số nhân tố Nhân tố Biến quan sát 1 2 3 4 5 6 7 8 NNL4 0,298 NNL3 0,265 NNL5 0,251 NNL2 0,262 NNL1 0,152 1268
  3. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 Nhân tố 6 gồm 4 biến: CSVCKT1 (Mức độ đầy đủ của cơ sở ăn uống gần điểm tham quan làng nghề), CSHT5 (Mức độ đầy đủ của bảng chỉ dẫn vào điểm tham quan làng nghề), CSHT4 (Mức độ đầy đủ của nhà vệ sinh công cộng) và CSVCKT2 (Mức độ đầy đủ của cơ sở lưu trú gần điểm tham quan làng nghề). Nhân tố này được đặt tên là “Cơ sở vật chất kĩ thuật”. Nhân tố 7 gồm 3 biến: CSVCKT4 (Cơ sở phục vụ dịch vụ bổ sung khác [trạm ATM, y tế, ngân hàng ] tại gần điểm tham quan làng nghề đảm bảo tốt), CLDVSP2 (Sự đa dạng của sản phẩm làng nghề) và CSVCKT3 (Mức độ đa dạng của cửa hàng mua sắm, quầy bán hàng lưu niệm). Nhân tố này được đặt tên là “Sản phẩm làng nghề và dịch vụ bổ sung”. Nhân tố 8 bao gồm 2 biến: NNL6 (Sự sẵn sàng giúp đỡ của hướng dẫn viên) và NNL7 (Mức độ đầy đủ của thuyết minh viên tại làng nghề”. Nhân tố này được đặt tên là “Sự giúp đỡ của hướng dẫn viên và đầy đủ thuyết minh viên”. Để khẳng định các nhân tố thực sự ảnh hưởng và cường độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng. Kết quả phân tích cho thấy R2 hiệu chỉnh = 0,334, giá trị Sig. của phân tích phương sai = 0,000 và VIF của các nhân tố < 2, thỏa mãn điều kiện (Dinh, 2012). Bảng hệ số (Bảng 4) cho thấy, có 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc là: F1 (“nguồn nhân lực”), F2 (“vệ sinh môi trường”), F3 (“chất lượng dịch vụ và sản phẩm”), F4 (“an toàn và an ninh”), F5 (“cơ sở hạ tầng”), F6 (“cơ sở vật chất kĩ thuật”), F7 (“sản phẩm làng nghề và dịch vụ bổ sung”) và F8 (“Sự giúp đỡ của hướng dẫn viên và đầy đủ thuyết minh viên”). Phương trình hồi quy tuyến tính như sau: Y=-6,092 +0,288F1+0,253F2+0,233F4+0,202F7+0,197F5+0,154F3+0,139F6+0,100F8+ui Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến Mô hình Hệ số (B) Hệ số (Beta) T Sig. VIF Hằng số - 6,092 0,000 1,000 F1 0,288 0,288 4,263 0,000 1,000 F2 0,253 0,253 3,746 0,000 1,000 F3 0,154 0,154 2,281 0,000 1,000 F4 0,233 0,233 3,446 0,000 1,000 F5 0,197 0,197 2,915 0,000 1,000 F6 0,139 0,139 2,054 0,000 1,000 F7 0,202 0,202 2,993 0,000 1,000 F8 0,100 0,100 1,485 0,000 1,000 Nguồn: Kết quả khảo sát từ du khách năm 2020, n=155 F1 có hệ số là 0,288 và quan hệ cùng chiều với sự phát triển làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “nguồn nhân lực” tăng thêm 1 điểm thì sự phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc tăng thêm 0,288 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,288. F2 có hệ số là 0,253 và quan hệ cùng chiều với sự phát triển làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “vệ sinh môi trường” tăng 1270
  4. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 phương tốt (M=3,86), người dân địa phương sẵn sàng giúp đỡ (M=3,84) và phong cách phục vụ chuyên nghiệp của hướng dẫn viên (M=3,81). Trong các phương diện này, phong cách phục vụ của hướng dẫn viên được đánh giá thấp nhất. Nhân tố “vệ sinh môi trường” được du khách đánh giá tốt (M=3,44). Theo đó, các làng nghề PVDL ở Phú Quốc đã bố trí đầy đủ thùng rác ở điểm tham quan (M=3,75), giữ gìn tốt vệ sinh ở bãi đỗ xe tham quan (M=3,46). Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề vệ sinh được du khách đánh giá tốt thì mức độ sạch sẽ của cơ sở làng nghề và nhà vệ sinh công cộng chỉ bình thường (lần lượt là M=3,38, M=3,18). Do đó, để phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc thì cơ sở làng nghề và các cơ quan chức năng cần quan tâm đến hai vấn đề này. Nhân tố “an toàn và an ninh” được du khách đánh giá bình thường (M=3,32). Tại các làng nghề PVDL ở Phú Quốc vẫn còn tình trạng trộm cắp, chèo kéo và thách giá du khách (lần lượt đánh giá trung bình là 3,38; 3,21 và 3,10). Tuy nhiên, công tác quản lí tình trạng ăn xin tốt (M=3,57). Để phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến việc quản tình trạng trộm cắp, chèo kéo và thách giá du khách. Nhân tố “sản phẩm làng nghề và dịch vụ bổ sung” được du khách đánh giá tốt (M=3,50) với đầy đủ cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống và nhà vệ sinh công cộng (giá trị trung bình lần lượt là 3,72; 3,67 và 3,46). Tuy nhiên, tại các làng nghề PVDL ở Phú Quốc chưa có đầy đủ bảng chỉ dẫn vào tham quan (M=3,14). Vì vậy, cần quan tâm vấn đề này hơn trong việc phát triển làng nghề PVDL trong thời gian tới. Nhân tố “cơ sở hạ tầng” ở làng nghề PVDL tại Phú Quốc được du khách đánh giá là bình thường (M=3,32) với đường giao thông đến điểm tham quan làng nghề chưa rộng rãi (M=3,35), bãi đỗ xe chưa rộng rãi (M=3,34) và chất lượng mặt đường đến điểm tham quan làng nghề còn kém (M=3,28). Vì vậy, để phát triển du lịch tại các làng nghề ở Phú Quốc cần chú trọng và quan tâm hơn đến vấn đề cơ sở hạ tầng. Nhân tố “chất lượng dịch vụ và sản phẩm” được du khách đánh giá tốt (M=3,77). Các phương diện thuộc nhân tố này cũng được đánh giá ở mức tốt như mẫu mã sản phẩm của làng nghề hấp dẫn (M=3,86), du khách được tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm của làng nghề (M=3,83), giá cả sản phẩm hợp lí (M=3,75), có dịch vụ mua sắm tại làng nghề (M=3,72) và sản phẩm độc đáo và đặc trưng (M3,71). Trong đó, khía cạnh độc đáo và đặc trưng của sản phẩm làng nghề được đánh giá thấp nhất. Nhân tố “cơ sở vật chất kĩ thuật” được du khách đánh giá tốt (M=3,60). Tuy nhiên, bên cạnh mức độ đa dạng của cửa hàng mua sắm, quầy bán hàng lưu niệm (M=3,87) và cơ sở phục vụ dịch vụ bổ sung tại gần điểm tham quan làng nghề (M=3,64) được đánh giá tốt, thì sự đa dạng của sản phẩm làng nghề chỉ ở mức bình thường (M=3,29). Để việc phát triển làng nghề PVDL ở Phú Quốc được tốt hơn cần quan tâm đến sự đa dạng của sản phẩm làng nghề. 1272
  5. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 để du khách có thể gọi và báo cáo tình trạng tiêu cực xảy ra như bán thách giá, có tình trạng trộm cắp hoặc cướp giật để cơ quan chức năng kịp thời xử lí. (iv) Cần nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm ở làng nghề thông qua việc đa dạng mẫu mã về sản phẩm để du khách có thể lựa chọn theo từng sở thích; ngoài ra, cần có nhiều mặt hàng với nhiều mức giá khác nhau để phù hợp với khả năng tài chính của từng đối tượng: khách lẻ, khách học sinh – sinh viên, khách thượng lưu Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất làng nghề cần có nơi để du khách trải nghiệm quá trình sản xuất, vì đây là một trong những điều hấp dẫn và tạo nên sự thích thú đối với du khách khi đến các làng nghề. (v) Các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương cần chú trọng việc nâng cao chất lượng mặt đường, mở rộng các tuyến đường giao thông đến các điểm tham quan làng nghề; mở rộng bãi đỗ xe ở các làng nghề để đảm bảo sức chứa các loại xe, có phân khu vực đậu xe đối các loại phương tiện khác nhau để tạo nên sự trật tự và thuận tiện. (vi) Các dịch vụ bổ sung là một trong những dịch vụ không thể thiếu cho sự phát triển làng nghề PVDL, các dịch vụ bổ sung bao gồm trạm ATM, y tế, ngân hàng cần được xây dựng và bố trí gần các làng nghề để đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan. Bên cạnh đó, xung quanh làng nghề phải đầy đủ các cửa hàng mua sắm, quầy bán hàng lưu niệm. Các cửa hàng này cần bán sản phẩm đặc trưng của làng nghề nơi đó, nhưng cũng cần chú trọng đến sự đa dạng sản phẩm. (vii) Cơ sở vật chất kĩ thuật cần được đầu tư đúng mức. Cần xây dựng và bố trí đầy đủ nhà vệ sinh công cộng để đảm bảo nhu cầu của du khách. Có các bảng chỉ dẫn vào các điểm tham quan làng nghề ở các ngã rẽ, các con đường vào làng nghề để du khách có thể dễ dàng tiếp cận, nhất là các khách lẻ. Ngoài ra, các bảng chỉ dẫn cần ghi song ngữ để dễ dàng cho các nhóm khách (tiếng Anh và tiếng Việt) hoặc thêm một số ngôn ngữ khác như tiếng Nga, tiếng Trung Quốc Cần bố trí đầy đủ các cơ sở ăn uống và lưu trú gần các làng nghề. Có thể kinh doanh thêm ăn uống và lưu trú tại các làng nghề, đặc biệt là loại hình lưu trú homestay, vừa tiện lợi vừa tạo sự trải nghiệm mới lạ cho du khách khi khám phá văn hóa địa phương và tham gia sinh hoạt với người dân làng nghề. 3. Kết luận Phát triển làng nghề PVDL là một trong những giải pháp duy trì và bảo tồn làng nghề cũng như góp phần hướng đến sự phát triển bền vững. Ngoài ra, du lịch làng nghề còn đem lại sự thích thú và hấp dẫn du khách, nhất là khách du lịch quốc tế khi đến một địa phương với nền văn hóa mới. Ở tỉnh Kiên Giang, việc gắn kết du lịch với các làng nghề được phát triển mạnh ở TP Phú Quốc với các làng nghề như làng nghề truyền thống làm nước mắm, làng nghề làm rượu sim, làng nghề trồng hồ tiêu, làng nghề nuôi ngọc trai. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề PVDL ở TP Phú Quốc, bao gồm “nguồn nhân lực”, “vệ sinh môi trường”, “an toàn và an ninh”, “sản phẩm làng nghề và dịch vụ bổ sung”, “cơ sở hạ tầng”, “chất lượng dịch vụ và sản phẩm”, “cơ sở vật chất kĩ thuật” và “sự giúp đỡ của hướng dẫn viên và đầy đủ thuyết 1274
  6. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 18, Số 7 (2021): 1265-1276 Prime Minister (2016). Quyet dinh so 2227/QD-TTg ve viec phe duyet Quy hoach tong the phat trien du lich dong bang song Cuu Long den nam 2020, tam nhin den nam 2030 [Decision No.2227/QD-TTg approving the Master plan for tourism development in the Mekong Delta region until 2020 with a vision to 2030]. Hanoi. Truong, T. T., & Ly, M. T. (2018). Tiem nang, thuc trang va giai phap phat trien du lich tai lang nghe det tho cam cua dong bao Khmer o xa Van Giao, huyen Tinh Bien, tinh An Giang [Potential, current situation and solutions to tourism development at brocade weaving craft village of Khmer ethnic in Van Giao commune, Tinh Bien district, An Giang province]. Can Tho University Journal of Science, 54(4C), 137-147. UNWTO (2006). Tourism and Handicrafts A Report on the International Conference on Tourism and Handicrafts. Held in Tehran – Islamic Republic of Iran, from May 13th to 15th 2006. FACTORS INFLUENCING THE HANDICRAFT DEVELOPMENT FOR TOURISM IN PHU QUOC CITY, KIEN GIANG PROVINCE Truong Tri Thong Faculty of Tourism, Kien Giang College, Vietnam Corresponding author: Truong Tri Thong – Email: ttthong@kgc.edu.vn Received: May 05, 2021; Revised: June 22, 2021; Accepted: July 21, 2021 ABSTRACT In Phu Quoc city, Kien Giang province there are many unique handicraft villages suitable for the handicraft tourism development. It is necessary to identify factors affecting the effectiveness of the handicraft tourism. This is also the purpose of this study. The results indicated that there are eight factors influencing the handicraft development for tourism in Phu Quoc city: (1) humans; (2) environmental hygiene; (3) safety and security; (4) handicraft village products and additional services; (5) infrastructure; (6) product and service quality; (7) technical materials; and (8) tour guides' support and adequacy of on-site guides. Based on the study, some solutions are proposed to promote the handicraft development for tourism in Phu Quoc city in the future. Keywords: Handicraft tourism; Kien Giang province; Phu Quoc city; traditional handicraft village 1276