Đề tài Đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0: Thực trạng và giải pháp

Trên cơ sở nguồn số liệu thứ cấp về đào tạo trình độ nhân lực ngành Du lịch,
khảo sát thực tế một số cơ sở đào tạo và doanh nghiệp lữ hành, yêu cầu về nội dung chương
trình đào tạo chung ASEAN (CATC), tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN
4.0), bài viết đề cập đến thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực du
lịch của Việt Nam trong bối cảnh mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp đối
với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp và người lao động trong ngành Du lịch, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Từ khóa: đào tạo; nguồn nhân lực du lịch; cách mạng công nghiệp 4.0 
pdf 8 trang xuanthi 03/01/2023 860
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_dao_tao_nguon_nhan_luc_du_lich_o_viet_nam_truoc_tac_d.pdf

Nội dung text: Đề tài Đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0: Thực trạng và giải pháp

  1. 76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI trình bày một số khía cạnh nhằm mục đích góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch Việt Nam trước bối cảnh mới. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến du lịch Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 tổ chức tại thành phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề: Cuộc CMCN lần thứ 4 đã khẳng định nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều gì mà loài người đã từng trải qua, Cụ thể, đây là một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Trong đó, mọi công dân đều có thể trở thành “công dân số”, mọi doanh nghiệp đều trở thành “doanh nghiệp số”, mọi lãnh đạo trở thành “lãnh đạo số” và mọi chính phủ trở thành “chính phủ số”. CMCN 4.0 đã phủ sóng toàn cầu, việc sử dụng viber hay dùng các phần mềm khác như Zalo, cho phép tương tác gần như tức thì, không có chậm trễ ngay cả khi ở nước ngoài. Nên khi đi du lịch ở nước ngoài vẫn có thể giữ được liên lạc thường xuyên với gia đình, người thân, giải quyết công việc. Đối với các đơn vị Du lịch, đây cũng là một cơ hội để có thể tuyên truyền, quảng bá những thông tin lên mạng, lên website. Đưa những hình ảnh tốt đẹp lên nhằm quảng bá điểm đến, đồng thời cũng nhận lại những thông tin xấu về tuyến điểm như có chỗ nào chặt chém, chèo kéo hay đeo bám du khách để làm giảm thiểu và đi đến giải quyết dứt điểm. Đây là biện pháp hữu hiệu để có thể tăng du khách, giảm tình trạng khách đến và không muốn quay lại nữa. Du lịch trong CMCN 4.0 cần được phát triển một cách thông minh với sự hỗ trợ của công nghệ số. CMCN 4.0 đang được ứng dụng rộng rãi vào tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có ngành du lịch. Vì vậy các cơ sở đào tạo du lịch - chiếc máy cái của ngành du lịch, cũng cần phải có những chuyển đổi mạnh mẽ để thích ứng với sự phát triển của công nghệ. CMCN 4.0 tác động đến đào tạo nhân lực ngành Du lịch: (1) Đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo, tăng thời lượng thực hành, thực tập thực tế tại doanh nghiệp; (2) Nâng cao và cập nhật trình độ chuyên môn, công nghệ cho đội ngũ giáo viên; (3) Ứng dụng công nghệ mới trong giảng dạy lý thuyết và thực hành; (4) Sinh viên cần được đào tạo thêm các kỹ năng mềm, kỹ năng ứng công nghệ mới, kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ trong hoạt động kinh doanh; (5) Liên kết nhà trường với doanh nghiệp, đào tạo theo nhu của doanh nghiệp và xã hội, CMCN 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ kỹ năng quản trị, kinh doanh, làm giảm giá thành và tăng chất lượng các dịch vụ du lịch, là động lực to lớn để kích cầu du lịch, đồng thời cũng đẩy một bộ phận nhân viên văn phòng, lao động giản đơn và những người không thích ứng với công nghệ mới ra khỏi ngành du lịch. Công nghiệp 4.0 vừa là cơ hội và cũng là thách thức đối với ngành Du lịch. 2.2. Khái quát về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam Về nhu cầu và thành tựu trong đào tạo nguồn nhân lực Du lịch
  2. 78 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI lý thuyết và thực hành) và trang thiết bị giảng dạy tuy còn khó khăn về kinh phí, nhưng đã có tiến bộ. Đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa về chất lượng. Các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch đã chủ động xây dựng chương trình, giáo trình. Một số khoa, bộ môn du lịch ở các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, trường dạy nghề đã và đang xây dựng chương trình các chuyên ngành, các nghề du lịch; biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo, chuyên khảo. Quy mô đào tạo, bồi dưỡng hàng năm tăng dần. Quy mô đào tạo mới tăng mạnh, chất lượng cơ bản đảm bảo, dần gắn với nhu cầu xã hội. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhiều ngành, nghề đào tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch, nhu cầu đào tạo du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội trong hội nhập quốc tế nói chung. Về tồn tại và bất cập trong đào tạo đào tạo nguồn nhân lực Du lịch: Theo Báo cáo về thực trạng chất lượng nguồn nhân lực du lịch của Tổng cục Du lịch, tại Việt Nam: Tỷ lệ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch còn thấp, chỉ chiếm 43% tổng số lao động du lịch, trong đó có hơn một nửa không biết ngoại ngữ. Năng suất lao động trong ngành du lịch nước ta chỉ bằng 1/15 của Singapore, 1/10 của Nhật Bản và 1/5 của Malaysia, Hiện tại, cả nước mới có trên 1,3 triệu lao động du lịch, chiếm khoảng 2,5% tổng lao động cả nước; trong đó chỉ có 42% được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ được huấn luyện tại chỗ1. Số lao động có chuyên môn, kỹ năng cao vừa thiếu, vừa yếu, nhưng số lao động chưa đáp ứng yêu cầu lại dư thừa. Theo Tổng cục Du lịch, với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, yêu cầu mỗi năm phải đào tạo thêm 25.000 lao động mới và phải đào tạo lại số lượng tương tự Thực tế, mỗi năm, các trường đào tạo chuyên ngành về du lịch chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu của ngành, dẫn đến tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực du lịch. Tính đến năm 2016, cả nước có 156 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có: 48 trường đại học; 43 trường cao đẳng và cao đẳng nghề. Tuy nhiên, chương trình đào tạo du lịch đến nay vẫn chưa được thống nhất. Tình trạng kết cấu khung chương trình đào tạo giữa các cơ sở rất khác nhau về tỷ lệ giữa khối kiến thức đại cương và chuyên ngành. Có cơ sở quá thiên về trang bị kỹ năng mà không quan tâm đến trau dồi kiến thức nền, do đó chỉ tạo đội ngũ thợ chứ không thể tạo ra những người quản lý giỏi. Ngược lại, có cơ sở tỷ lệ dạy thực hành rất thấp, dẫn đến kỹ năng nghề của sinh viên yếu kém, còn thiếu hệ thống giáo trình cốt lõi; tài liệu tham khảo khá phong phú nhưng chất lượng hạn chế. Trong khi đó, không thể sử dụng giáo trình nước ngoài để giảng dạy chính thức vì nội dung, tên môn học, hệ số tín chỉ có sự khác biệt lớn, nhiều lĩnh vực lại chưa phù hợp điều kiện phát triển và đặc điểm của nước ta. 1 Tạ Trần Trọng, Phạm Thị Giang Thùy (2020), Nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, Hội thảo khoa học quốc gia: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh công nghiệp 4.0.
  3. 80 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Ba là, có chính sách khuyến khích mời các chuyên gia quốc tế về du lịch, các giảng viên có kinh nghiệm ở các cơ sở đào tạo du lịch ở các nước có ngành du lịch phát triển sang Việt Nam tham gia soạn chương trình nội dung môn học, giảng dạy, đặc biệt với những môn mới hoặc những môn mà Việt Nam còn ít các giảng viên, chuyên gia có trình độ cao. Bên cạnh đó cũng cần có cơ chế để thu hút sự tham gia tích cực của nhà quản lý, các nhà khoa học có trình độ, các doanh nhân có kinh nghiệm, các nghệ nhân, chuyên gia, kỹ thuật viên có kỹ năng nghề cao vào hoạt động đào tạo để nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo du lịch. Bốn là, để đảm bảo chất lượng đào tạo phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, cần tiếp tục đào tạo kỹ năng cho đội ngũ thẩm định viên, giám sát viên, đào tạo viên du lịch đạt trình độ khu vực và quốc tế và sử dụng hiệu quả đội ngũ này Năm là, thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên/giáo viên, học tập của học sinh/sinh viên theo hướng tích cực, chủ động. Nội dung bài giảng của giảng viên/giáo viên phải được thiết kế mang tính trực quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim, gắn với thực tế nghề nghiệp, gắn với doanh nghiệp. Thay đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá trên cơ sở đánh giá năng lực, bao gồm cả 3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Tập trung chủ yếu vào việc đánh giá - năng lực chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ. Sáu là, gắn kết giữa cơ sở đào tạo/dạy nghề với doanh nghiệp Du lịch trong quá trình đào tạo, thực hành, thực tập của học sinh/sinh viên để tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp. Đối với doanh nghiệp và người lao động Các du khách lựa chọn, đặt mua, trải nghiệm chuyến đi liên tục thay đổi, ngày càng thiên về định hướng giao dịch thương mại điện tử. Vì vậy tiếp thị kỹ thuật số trở thành thách thức lớn cho doanh nghiệp du lịch, đặt ra yêu cầu có được những chiến lược thực sự phù hợp thu hút du khách. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý, hướng dẫn viên, tư vấn viên về kỹ năng mềm, kỹ năng ứng công nghệ mới, kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ trong hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp lữ hành cùng với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch kiến tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo về văn hóa ẩm thực, trải nghiệm các di sản phi vật thể đã được UNESCO công nhận đối với các tour nội địa. Đối với các tour quốc tế sẽ đầu tư nhiều hơn cho các hình thức du lịch tìm hiểu các mô hình đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh (hiện nay loại hình du lịch kết hợp chữa bệnh, thăm hỏi người thân, đang phát triển mạnh), đa dạng theo yêu cầu của khách hàng. Đối với người lao động cần phải nâng cao trình độ, tích cực tham gia học tập, cân nhắc, lựa chọn để chuyển đổi nghề nghiệp cho phù hợp; nâng cao ý thức, tuân thủ pháp luật, tác phong lao động công nghiệp và kỷ luật lao động. Đặc biệt, mỗi người lao động cần phải có niềm tin đối với cuộc CMCN 4.0, bởi công việc truyền thống có thể mất đi nhưng sẽ có cơ hội đến với công việc mới đòi hỏi sự thích nghi, ổn định, thu nhập tốt hơn, Trước tác động CMCN 4.0 cũng như bối cảnh mới nói chung, mọi hoạt động
  4. 82 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 5. Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới. 6. Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 24/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030. TRAINING TOURIST HUMAN RESOURCES IN VIETNAM BEFORE THE IMPACT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0: CURRENT SITUATION AND SOLUTIONS Abstract: On the basis of secondary data on human resources training in tourism industry, actual survey of a number of tourism training institutions and businesses, requirements for the content of the ASEAN general training program ( CATC), the impact of the Industrial Revolution 4.0 (Industry 4.0), the article mentions the current situation of training human resources in the tourism industry in Vietnam recently and requirements for the training work. tourism human resources of Vietnam in the new context. On that basis, the author proposes a number of solutions for training institutions, businesses and workers in the tourism industry, thereby contributing to improving the efficiency of human resource training in the tourism industry. calendar. Keywords: Training; human resources for tourism; industrial revolution 4.0