Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam thích ứng với tình hình mới

Trong xu thế hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của đại dịch Covid- 19, nguồn nhân
lực du lịch Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn. Bài viết phân tích
thực trạng nguồn nhân lực du lịch ở nước ta, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du
lịch từ các cơ sở đào tạo đã tăng lên trong thời gian qua. Tuy nhiên còn nhiều khó khăn,
hạn chế, chất lượng nhân lực du lịch chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, sự thiếu hụt nguồn
nhân lực do tác động của dịch bệnh. Trước ảnh hưởng của cuộc cánh mạng công nghệ
4.0 và những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đang diễn ra, yêu cầu cho việc đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực du lịch thích ứng với tình hình mới, một số giải pháp nhằm tạo
sự đột phá trong đào tạo và sử dụng nguồn lực du lịch, mục tiêu góp phần đưa ngành du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và khắc phục những khó khăn sau đại dịch toàn
cầu. 
pdf 13 trang xuanthi 03/01/2023 740
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam thích ứng với tình hình mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_tai_giai_phap_nang_cao_chat_luong_dao_tao_nguon_nhan_luc.pdf

Nội dung text: Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam thích ứng với tình hình mới

  1. with the aim of contributing to turning the tourism industry into a spearhead economic sector and overcoming difficulties after the global pandemic. 1. Giới thiệu Ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua có những nền tảng quan trọng để phát triển. Các chỉ tiêu về khách du lịch quốc tế, nội địa, sự phát triển của các doanh nghiệp khách sạn, du lịch; hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch và đội ngũ những người làm du lịch đã có những bước phát triển vượt bậc. Hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam được triển khai theo hướng thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp định thỏa thuận hợp tác cấp chính phủ, cấp ngành song phương và đa phương, tranh thủ hợp tác, hỗ trợ của các nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể và các cam kết mở cửa tự do hóa thương mại dịch vụ du lịch trong các khuôn khổ WTO, ASEAN, APEC Tuy nhiên, Dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành Du lịch, trong đó có nguồn nhân lực. Sự hao hụt về mặt nhân sự do số lượng lao động không nhỏ phải nghỉ việc hoặc chuyển nghề đã buộc các cơ sở du lịch phải có sự chuyển đổi mạnh mẽ cả về tư duy và phương pháp quản lý, bên cạnh đó, quá trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Trước bối cảnh đó, một trong những giải pháp đột phá để nâng cao tính cạnh tranh, ngành Du lịch Việt Nam sẽ cần phải có những thay đổi, phát triển du lịch thông minh, phát triển chính quyền điện tử, đổi mới môi trường phục vụ, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo Điều này phụ thuộc rất nhiều vào việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch có chất lượng cao để có thể nắm bắt cơ hội, đối diện với thách thức tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách và khắc phục những khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. 2. Tổng quan tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia phát triển du lịch trọng điểm. Trên thế giới, các nghiên cứu về nguồn nhân lực du lịch và vai trò của nguồn nhân lực du lịch được đề cập trong báo cáo cạnh tranh du lịch và lữ hành (World Economic Forum, 2019), du lịch quốc tế những điểm đến (World Tourism Organization, 2019). Bên cạnh đó một số nghiên cứu cũng chỉ rõ vai trò của nguồn nhân lực du lịch và phát triển nguồn nhân lực du lịch có ý nghĩa với sự phát triển của một quốc gia (Sherap Bhutia, 2014). Nguồn nhân lực có vai trò quyết định không chỉ đối với sự phát triển của ngành du lịch mà còn góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước (Tom Baum, 2007). Tác giả (Szivas, 1999) khẳng định rằng những người lao động có trình độ và động lực có thể cung cấp các dịch vụ chất lượng cao và đạt được lợi thế cạnh tranh cho các công ty và điểm đến để nâng cao năng suất và chất lượng ở tất cả các cấp trong các tổ chức, điểm đến và quốc gia. (Sandra Herman, 2015) phân tích các đặc điểm của ngành du lịch, nêu lên một số đặc điểm 80
  2. giải pháp đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực du lịch trong tình hình với sau đại dịch Covid-19 và cuộc cách mạng công nghệ 4.0. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong nghiên cứu này, tác giả chủ yếu sử dụng mô tả phương pháp thống kê, phân tích thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả cũng tiến hành phân tích tình hình đào tạo nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam. Thu thập dữ liệu thứ cấp và sử dụng phần mềm Excel và biểu đồ để phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam từ năm 2010-2020. Kết quả chỉ ra điểm mạnh và điểm yếu của nguồn nhân lực du lịch, đồng thời đánh đánh giá thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch với những thành tựu và hạn chế đang tồn tại để đưa ra các giải pháp khả thi trong thời gian tới. 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch Ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2019 có sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng khách du lịch và doanh thu, từ năm 2010 đến 2016, Việt Nam đã đón trên 5 triệu lượt khách du lịch; chỉ trong vòng 2 năm sau, số lượng quốc tế khách du lịch đã đạt trên 15 triệu lượt. Tương tự, lượng khách trong nước cũng tăng nhanh chóng trong giai đoạn này. Năm 2010, Việt Nam có 28 triệu lượt khách nội địa; sau 5 năm, con số này đã tăng gấp 2,2 lần lên 62 triệu lượt vào năm 2016, giai đoạn 2015- 2020, đóng góp trực tiếp gần 10% GDP, đóng góp lan tỏa trên 18% GDP. Tổng Cục Du lịch Việt Nam khẳng định, nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng này, Việt Nam hoàn toàn có thể bắt kịp với các nước hàng đầu Châu Á về du lịch như Thái Lan, Singapore và Malaysia. Tuy nhiên đến năm 2020- 2021 lượng khách du lịch và doanh thu ngành du lịch giảm nghiêm trọng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 (Bảng 1). Hàng chục nghìn doanh nghiệp du lịch bị phá sản hoặc ngừng hoạt động, hàng triệu lao động du lịch không có việc, thất nghiệp hoặc chuyển nghề. Tình trạng này dẫn đến việc thất thoát nhân lực trầm trọng đối với lĩnh vực du lịch và đây thực sự là một hiện tượng báo động, hàng trăm nghìn lao động đã phải xin trợ cấp thất nghiệp (Tổng Cục du lịch; 2020), từ đó ảnh hưởng lớn đến nguồn nhân lực du lịch hiện nay và trong thời gian tới khi ngành du lịch hoạt động trở lại. Bảng 1. Số lượng khách du lịch đến Việt Nam và doanh thu từ du lịch từ năm 2010-2020 Năm Số lượng khách trong Số lượng khách quốc Doanh thu Sự tăng trưởng nước (nghìn lượt) tế (nghìn lượt) (Nghìn tỉ đồng) doanh thu (%) 2010 28.000 5.000 96,00 41,2 2012 32.500 6848 160,00 23,1 82
  3. Trung cấp và tương đương 78.200 115.300 9,5 174.000 10,2 Sơ cấp 98.700 151.800 10,7 231.000 10,4 Dưới sơ cấp (học nghề tại 187.450 268.200 8,6 348.300 5,9 chỗ) Nhu cầu nhân lực ngành du lịch theo vị trí việc làm Lao động quản lý 32.500 56.100 14,5 83.300 9,7 Lao động nghiệp vụ 387.100 564.000 9,2 787.000 7,9 1) Lễ tân 37.200 51.000 7,4 69.500 7,2 2) Phục vụ buồng 48.800 71.500 9,3 98.000 7,4 3) Phục vụ bàn, bar 68.400 102.400 9,9 153.000 9,8 4) Chế biến món ăn 35.700 49.300 7,6 73.400 9,7 5) Hướng dẫn 20.600 30.800 9,9 45.000 9,2 6) VPDL, ĐL lữ hành 31.100 52.600 13,8 81.400 10,9 7) Nhân viên khác 145.300 206.400 8,4 266.700 6,0 Nguồn:Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2018) * Những tích cực trong đào tạo nhân lực du lịch Hiện nay, Việt Nam có hơn 192 cơ sở đào tạo du lịch và tham gia giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo ngắn hạn, cả nước có “62 trường đại học, 80 trường cao đẳng, trong đó có 8 trường cao đẳng nghề, 117 trường trung cấp, trong đó có 12 trường trung cấp nghề, 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm có tham gia đào tạo nghiệp vụ du lịch” (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, 2020). Trên phạm vi cả nước, có rất nhiều cơ sở đào tạo du lịch với các ngành như: Du lịch, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng, Quản trị du lịch lữ hành, Việt Nam học Tại các trường Đại học, với xu thế tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới và nghiên cứu thực tiễn của nhu cầu nhân lực du lịch, các ngành đào tạo về du lịch, sinh viên ra trường có thể đảm nhận được các vị trí như: Hướng dẫn viên du lịch; Điều hành du lịch: nghiên cứu thị trường, xây dựng các sản phẩm (chương trình du lịch, sự kiện ), tổ chức các hoạt động marketing và bán sản phẩm liên quan đến lĩnh vực du lịch; Quản lí doanh nghiệp lữ hành: từ hoạch định đến điều hành việc thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh du lịch; Lễ tân, Nhân viên các bộ phận tại các khách sạn; Quản lý, trưởng bộ phận tại các khách sạn, khu nghỉ dưỡng; Giảng dạy, nghiên cứu về lĩnh vực du lịch, khách sạn Song số sinh viên tập trung đông và ra trường có việc làm đúng ngành sau khi tốt nghiệp phân bổ chủ yếu ở các trường Đại học có thương hiệu ở Hà Nội và phụ cận, TP Hồ Chí Minh Bên cạnh hệ thống đại học thì các trường Cao đẳng và Trung cấp nghề, các Trung tâm đào tạo nghề du lịch chiếm thế mạnh, có tỉ lệ lớn với số lượng người học tham gia đông nhất, tập trung ở những địa phương có tiềm năng và thế mạnh phát triển du lịch ở Quảng Ninh, Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh như: Cao đẳng nghề du lịch Sài Gòn, Cao đẳng Du lịch Hà Nội, Trường Trung cấp nghề Du lịch và Khách sạn Sài Gòn, Công 84
  4. Hệ thống quản lý giáo dục còn chồng chéo. Nguồn nhân lực du lịch được đào tạo ở các cơ sở giáo dục trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý; cơ sở dạy nghề do Bộ Lao động - Thương binh quản lý, trong khi đó, các quy định về tuyển sinh, đào tạo, khảo thí, giáo viên các tiêu chuẩn được thực hiện bởi hai Bộ riêng biệt; một bên đào tạo theo tín chỉ, một bên đào tạo theo chuyên đề. Điều này dẫn đến sự chênh lệch về năng lực của người học ở đầu ra. Ở Việt Nam, chưa có trường đại học nào khẳng định được chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn quốc tế. Một số trường đã liên kết chương trình với các tập đoàn khách sạn lớn nhưng chương trình thiên về lý thuyết mà thiếu thực hành. Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của nước ta còn một số vấn đề bất cập như: Danh mục ngành nghề lạc hậu còn ít so với yêu cầu sử dụng, chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa tính hết yêu cầu của thị trường nên không đáp ứng được thực tiễn; Các trường chưa chú trọng đến việc giáo dục thái độ nghề nghiệp cho sinh viên, đa số các trường chỉ chú trọng đến việc cung cấp kiến thức cho người học, mục tiêu về kỹ năng và thái độ ít được quan tâm; Thời lượng và cách thức rèn luyện kỹ năng thực hành nghề chưa phù hợp, thời lượng học thực hành quá ít do kinh phí thực hành lớn và nhà trường thiếu trang thiết bị cần thiết. Trong suốt quá trình đào tạo sinh viên được đi thực tế tại cơ sở nhưng hiệu quả không cao. Giữa nhà trường và cơ sở tiếp nhận sinh viên thực tập không có thỏa thuận nào về quyền lợi và trách nhiệm đối với việc hướng dẫn sinh viên thực tập; Vấn đề nâng cao năng lực ngoại ngữ cho sinh viên không thật sự hiệu quả. Số lượng sinh viên/lớp học đông, thời lượng học ít nên sinh viên ít có cơ hội được thực hành; Chương trình dạy ngoại ngữ vẫn theo lối mòn, chú trọng đến các kỹ năng đọc, viết ít quan tâm đến kỹ năng nghe và nói, điều này dẫn đến hậu quả là sinh viên viết tốt, đọc hiểu nhưng không thể giao tiếp được; Việc cung cấp kiến thức về lịch sử, văn hóa thường bị coi nhẹ hơn các môn học chuyên ngành làm giảm tính hiệu quả trong quá trình giao tiếp với khách. Sinh viên mới ra trường sẽ không có nhiều kinh nghiệm chuyên sâu để xử lý công việc một cách chuyên nghiệp. Nhiều cơ sở học sinh, sinh viên đã không được tư vấn nghề nghiệp ngay từ giai đoạn nhập học, dẫn đến thiếu định hướng, lựa chọn công việc không phù hợp với năng lực. Nguồn lao động du lịch không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về chuyên môn. Hiện nay chỉ có 42% lao động đang hoạt động trong ngành được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về du lịch, 38% được đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ được huấn luyện tại chỗ. Trong đó, lao động trực tiếp của ngành du lịch chủ yếu trình độ sơ cấp và cao đẳng, chiếm 51% ( Tổng Cục Du lịch, 2020). Khả năng đáp ứng về chuyên môn nghề nghiệp của lao động còn thấp; đặc biệt khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ vào nghiệp vụ chuyên môn còn rất hạn chế. Số người sử dụng được ngoại ngữ đạt khoảng 60% tổng nhân lực, trong đó nhiều nhất là tiếng Anh khoảng 42%, thiếu trầm trọng nguồn nhân lực du lịch biết các ngôn ngữ khác như tiếng Hoa chỉ có 5%, tiếng Pháp là 4%, và các tiếng khác là 9%. Riêng tiếng Anh thì chỉ có 15% đạt trình độ đại học, giao tiếp thông thạo (phần lớn làm hướng dẫn viên, lễ tân khách sạn và nhân viên thị trường), còn lại 86
  5. Thay đổi toàn diện mục tiêu đào tạo tại các cơ sở đào tạo, tiếp tục hoàn thiện phương thức đào tạo và chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo cần phù hợp với tiêu chuẩn đào tạo của khu vực và quốc tế, bổ sung kiến thức thực tiễn để nguồn nhân lực du lịch thích ứng được sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Trong quá trình xây dựng khung hoặc chương trình đào tạo ở tất cả các cấp cần thiết mời các chuyên gia, giảng viên quốc tế giàu kinh nghiệm cùng tham gia, có cơ chế thu hút sự tham gia tích cực của các các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nhân giàu kinh nghiệm, chuyên gia, kỹ thuật viên có trình độ cao. Xác định mục tiêu kiến thức cụ thể cho từng hệ đào tạo để định hướng và phân loại lao động; cân đối hợp lý giữa thời gian học lý thuyết với thời gian học thực hành của từng hệ đào tạo. Mở rộng hoạt động của Hội đồng Cấp chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch Việt Nam (VTOS) (Tổng Cục du lịch; 2013), người lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học sinh, sinh viên các trường du lịch tiếp cận, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn VTOS nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất, đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch lẫn nhau. Bên cạnh đó các cơ sở đào tạo cần đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo ngoại ngữ, đổi mới tư duy, nhận thức về dạy ngoại ngữ từ việc xác định mục tiêu học tập dựa theo nội dung (content objectives) sang mục tiêu thể hiện (performance objectives); xây dựng chuẩn đầu ra cho từng đối tượng; đưa tiếng Anh chuyên ngành vào chương trình giảng dạy du lịch, môi trường thực hành giao tiếp cho sinh viên để khi hành nghề có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ và phát triển nghề nghiệp chuyên môn, giúp khách du lịch hiểu tường tận về văn hóa Việt Nam và quảng bá hình ảnh đất nước ra bên ngoài. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đảm bảo đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng nhu cầu đào tạo. Chú ý nâng cao mức độ công nghệ thông tin, ngoại ngữ và phương pháp giảng dạy để giảng viên du lịch, giáo viên, giảng viên có thể trực tiếp giảng dạy, tự học, trao đổi kiến thức chuyên môn với các chuyên gia nước ngoài cũng như tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế và học tập. Cải thiện và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập. Tăng ngân sách cho việc nâng cấp và mở rộng các cơ sở đào tạo; Đầu tư máy móc hiện đại và thiết bị cho lớp học; Đảm bảo số lượng học sinh hoặc số lớp học không quá tải. Bổ sung cơ sở vật chất, khu thực hành cho sinh viên như trung tâm tư vấn du lịch, thực hành khu vực khách sạn - nhà hàng, lễ tân Xây dựng thư viện điện tử để giảng viên và sinh viên dễ dàng truy cập tham khảo hệ thống, thường xuyên cập nhật học liệu số dùng chung, gồm bài giảng, giáo trình, đề thi điện tử, các phần mềm mô phỏng và các học liệu khác cần thiết. Ngoài ra cần có sự liên kết, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy cho đồng bộ. Đẩy mạnh sự liên kết với doanh nghiệp, tăng cường hợp tác đào tạo giữa các cơ sở đào tạo nhân lực và các doanh nghiệp du lịch; Các cơ sở đào tạo cần chủ động trao đổi, tìm kiếm những lợi thế kết nối hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp du lịch để dự báo nhu cầu lao động, xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo 88
  6. năng về tin học, truyền thông đa phương tiện để người học có được những kỹ năng thiết yếu trong tình hình mới. Phát triển khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành động lực phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, gắn liền với nhiệm vụ quản lý nhà nước và hoạt động khai thác, kinh doanh du lịch, đổi mới cơ chế, tăng cường tiềm lực, thúc đẩy phát triển du lịch. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sáng tạo, sáng chế, phát minh khoa học và công nghệ gắn với nghiên cứu và đào tạo du lịch, kết quả nghiên cứu ứng dụng đi đôi với tăng cường quản lý và kinh doanh du lịch. 5. Kết luận Trong tình hình mới với xu thế hội nhập quốc tế và đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến ngành du lịch Việt Nam. Thời gian qua, việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, đã xây dựng được hệ thống đào tạo nguồn nhân lực từ sơ cấp đến đại học, sau đại học. Đội ngũ nguồn nhân lực được đào tạo đã góp phần quan trọng đưa ngành Du lịch Việt Nam phát triển mạnh, đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội, đem hình ảnh của Việt Nam ra bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, hình thành nhiều lĩnh vực du lịch mới, nguồn nhân lực du lịch Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế, công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết. Bên cạnh đó, trước sự ảnh hưởng của dịch bệnh, nhân lực du lịch không việc làm phải chuyển tạm thời và lâu dài sang những ngành khác, làm ảnh hưởng đến nguồn nhân lực du lịch sau khi kinh tế phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát. Những giải pháp quan trọng cần thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong tình hình mới, trong đó đẩy mạnh công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dựng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch, tăng cường xúc tiến thị trường trong nước và duy trì quảng bá hình ảnh Việt Nam ở nước ngoài, liên kết trong đào tạo du lịch, đặc biệt chú trọng liên kết với doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước, quan tâm đến chất lượng đào tạo và kỹ năng nghề du lịch, đáp ứng nhu cầu của ngành du lịch trong tình hình mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban chấp hành Trung ương Đảng (2017). Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Số 08-QĐ/TW, ngày 16 tháng 01 năm 2017. [2] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2016). Đề án tăng cường đào tạo theo nhu cầu xã hội lĩnh vực du lịch đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030. [3] Klaus Schwab (2018). Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. NXB Chính trị Quốc gia. [4] Lê Anh Tuấn (2019). Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch. ISBN- 978-604-73-7107-5. NXB Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh. [5] Lê Sĩ Trí (2018). Quảng bá du lịch trong thời kỳ CMCN 4.0, những vấn đề đặt ra và kiến nghị - Kỉ yếu Hội thảo “Phát triển du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0”. ISBN- 978-604-73-5980- 6. NXB Thành Phố Hồ Chí Minh. 90