Đề tài Quá trình hình thành đảng cộng sản Việt Nam - Vũ Quang Hiển

"Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân, mà còn ở cả các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình
doc 8 trang xuanthi 26/12/2022 3420
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Quá trình hình thành đảng cộng sản Việt Nam - Vũ Quang Hiển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_qua_trinh_hinh_thanh_dang_cong_san_viet_nam_vu_quang.doc

Nội dung text: Đề tài Quá trình hình thành đảng cộng sản Việt Nam - Vũ Quang Hiển

  1. Mátxcơva (tháng 7-1923), kế hoạch của Người đã được quyết định: sau ba tháng lưu lại ở đây, Người sẽ đi Trung Quốc để tìm cách liên lạc với Đông Dương, nhưng không được Quốc tế Cộng sản tạo điều kiện. Ngày 11-4-1923, trong thư gửi Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản, Người cho rằng chuyến về Việt Nam qua Trung Quốc của mình “sẽ là một chuyến đi điều tra và nghiên cứu” và đề nghị Quốc tế Cộng sản tạo điều kiện giúp đỡ. Người tỏ ý không hài lòng về sự chậm trễ: “bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và là tháng thứ sáu tôi chờ đợi”, “việc lên đường của tôi vẫn chưa được quyết định”1. Thời gian lưu lại Liên Xô chừng một năm, tiếp tục công việc đã làm ở Pháp, Hồ Chí Minh từng bước phác thảo một chiến lược đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Công việc đó được hoàn thiện dần, nhất là thời gian ở Quảng Châu (Trung Quốc). Người không sao chép nguyên văn các tác phẩm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà có sự vận dụng phương pháp biện chứng duy vật để phân tích xã hội thuộc địa, chỉ ra mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược; xây dựng nên một lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam 2. Nội dung lý luận đó được trình bày qua nhiều bài của Người viết cho các báo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc , những tham luận tại một số hội nghị và đại hội quốc tế, nhất là Đại hội V của Quốc tế Cộng sản; đặc biệt là qua hai tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường kách mệnh. Khác với chiến lược đấu tranh giai cấp đang được nhấn mạnh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định chiến lược cách mạng ở thuộc địa chưa phải là đấu tranh xoá bỏ giai cấp bóc lột nói chung, mà là đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người phân biệt hai loại cách mạng: “giai cấp kách mệnh” (như cách mạng tư sản và cách mạng vô sản) và “dân tộc kách mệnh”, xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực lượng của cuộc cách mạng đó bao gồm toàn dân tộc. “Dân tộc kách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ nông công thương đều nhất trí chống lại cường quyền”, trong dó công nhân và nông dân là “chủ kách mệnh”, “gốc kách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của công nông” Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, có quan hệ mật thiết, nhưng bình đẳng với cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và có thể giành thắng lợi trước. 1 Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, t. 1, Sđd, tr. 261-262. 2 “Lý luận giải phóng dân tộc” là thuật ngữ dùng theo Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn nghệ, Hà Nội, 1994, tr. 71. 2
  2. Người đã đào tạo được 75 người. Phần lớn học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ được học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật. Sau khi học xong, một số người được gửi sang học tại Trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại Liên Xô, một số khác vào học Trường Quân sự Hoàng Phố ở Trung Quốc, còn phần lớn “bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân” 1. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ngày càng phát triển mạnh trong cả nước, có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ cơ quan lãnh đạo cao nhất là Tổng bộ đến cơ sở là chi bộ. Đến năm 1929, Hội có có khoảng 1700 hội viên. Cùng thời gian này, phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới có sự chuyển biến mới. Hội Phục Viêt (1924), đổi thành Hưng Nam (1925) chịu ảnh hưởng đường lối của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đã cử nhiều người sang dự những lớp huấn luyện chính trị của Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu; sau nhiều lần đổi tên và đề nghị hợp nhất không thành, họ lấy tên chính thức là Tân Việt Cách mạng đảng (1928). Lý luận “dân tộc cách mệnh” của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng rộng rãi trong Tân Việt Cách mạng đảng và được tổ chức này xem là hệ tư tưởng của họ. Trong phong trào “Vô sản hoá” (từ cuối năm 1928), nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, cùng lao động và sinh hoạt với công nhân, nhất là ở Bắc Kỳ. Đây là một phương thức tự rèn luyện của đội ngũ những chiến sĩ cách mạng tiền bối, đồng thời cũng là phương thức tuyên truyền, vận động cách mạng, nâng cáo ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho phong trào càng phát triển mạnh, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung. 2. Cuộc đấu tranh để thành lập Đảng Cộng sản Đến năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp của nhân dân yêu nước Việt Nam đã phát triển, kết thành một làn sáng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Vai trò của những tổ chức quá độ đã đến lúc kết thúc, để tiến lên thành lập một tổ chức cao hơn. Yêu cầu đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong những tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Tháng 3-1929, với sự nhạy cảm về chính trị, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ họp tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội, lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên gồm 7 đảng viên. Chi bộ mở rộng 1 Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn nghệ, Hà Nội, 1956, tr. 71. 4
  3. Như vậy, chỉ trong thời gian 4 tháng, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời. Điều đó chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản đã trở thành một xu thế khách quan của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, và lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thấm sâu trong phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản đều tích cực hoạt động, tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn. Tuy nhiên, “từ khi Hội An Nam Thanh niên Cách mạng tan rã, hai nhóm cộng sản sử dụng nhiều - nếu không nói là tất cả - nghị lực và thời gian trong các cuộc đấu tranh nội bộ và bè phái” 1. Sự hoạt động riêng rẽ giữa các tổ chức cộng sản làm cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng bị phân tán. “Cả hai đều cố gắng thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày càng rộng bấy nhiêu”. “Nhiều thì giờ và sức lực đã bị lãng phí vì sự rối ren chia rẽ đó, đảng vien của mỗi bên đều bị thiệt hại, chỉ trích lẫn nhau là không Bônsơvích” 2. Điều đó không đúng với nguyên tắc tổ chức Đảng Cộng sản và không phù hợp với lợi ích của phong trào cách mạng. Đó là một nguy cơ trước mắt của cách mạng Việt Nam. Cần thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng là yêu cầu khách quan của lịch sử. Nhưng tự bản thân các tổ chức cộng sản lại không thống nhất được với nhau do ảnh hưởng của tư tưởng bản vị, cục bộ, vốn là con đẻ của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán. 3. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm và đã “hai lần cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại” vì “mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật”. Người đang cố gằng đi lần thứ ba, thì một đồng chí từ Hồng Công tới Xiêm và tin cho Người biết tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái. Người quyết định rời Xiêm về Trung Quốc và tới nơi ngày 23-12-1929. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương Người triệu tập đại biểu của hai nhóm Đông Dương cộng sản đảng và An nam cộng sản đảng họp Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 6-1-1930. Ngày 8-2-1930 các đại biểu về nước. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Sđd, tr. 21. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Sđd, tr. 35. 6
  4. Hội nghị cũng chủ trương thành lập mặt trận phản đế, bao gồm tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, đảng Nguyễn An Ninh Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột. Người vạch rõ “giữa lúc các cuộc khủng bố trắng lên đến đỉnh cao thì những người cộng sản An nam trước kia chưa có tổ chức, đang thống nhất lại thành một đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng”. Người kêu gọi quần chúng “gia nhập Đảng, ủng hộ đảng và đi theo Đảng”1. Ngày 24-2-1930, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời ra Quyết nghị chấp nhận Đông Dương cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thành lập đảng có ý nghĩa như một đại hội. Sự ra đời của Đảng với tổ chức thống nhất và Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước kếo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX; đưa cách mạng Việt Nam hội nhập vào những trào lưu cách mạng trên thế giới. Đó là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho những thắng lợi và những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam về sau. Hồ Chí Minh đã xây dựng được một đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”2. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 9-10. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 130. 8