Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 1: Mười nguyên lý của kinh tế học

Thuật ngữ nền kinh tế (economy) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “người quản gia”.
Thoạt tiên, điều này có vẻ lạ lùng. Nhưng trên thực tế, các hộ gia đình và nền kinh tế có rất
nhiều điểm chung.
Cũng giống như một gia đình, xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Một xã hội phải
quyết định cái gì cần phải làm và ai sẽ làm việc đó. Cần phải có một số người sản xuất thực
phẩm, một số người khác sản xuất quần áo và cũng cần có một số người thiết kế các phần
mềm máy tính nữa. Một khi xã hội đã phân bổ được mọi người (và đất đai, nhà xưởng, máy
móc) vào những ngành nghề khác nhau, nó cũng phải phân bổ sản lượng hàng hóa và dịch vụ
mà họ đã sản xuất ra. Nó phải quyết định ai sẽ ăn trứng cá, ăn thịt và ai sẽ ăn rau. Nó phải
quyết định ai sẽ đi xe con và ai sẽ đi xe buýt 
pdf 12 trang xuanthi 28/12/2022 2960
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 1: Mười nguyên lý của kinh tế học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nguyen_ly_kinh_te_hoc_chuong_1_muoi_nguyen_ly_cua.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 1: Mười nguyên lý của kinh tế học

  1. Nguyên lý 1: Con người đối mặt với sự đánh đổi Bài học đầu tiên về ra quyết định được tóm tắt trong câu ngạn ngữ sau: “Chẳng có gì là cho không cả”. Để có được một thứ ưa thích, chúng ta thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình thích. Ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để đạt được một mục tiêu khác. Chúng ta hãy xem xét tình huống một cô sinh viên phải quyết định phân bổ nguồn lực quý báu nhất của mình: đó là thời gian của cô. Cô có thể dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu kinh tế học, dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu tâm lý học, hoặc phân chia thời gian giữa hai môn học đó. Đối với mỗi giờ học môn này, cô phải từ bỏ một giờ học môn kia. Đối với mỗi giờ học, cô phải từ bỏ một giờ mà lẽ ra cô có thể ngủ trưa, đạp xe, xem TV hoặc đi làm thêm. Hoặc hãy xem xét cách thức ra quyết định chi tiêu thu nhập của gia đình của các bậc cha mẹ. Họ có thể mua thực phẩm, quần áo hay quyết định đưa cả nhà đi nghỉ. Họ cũng có thể tiết kiệm một phần thu nhập cho lúc về già hay cho con cái vào học đại học. Khi quyết định chi tiêu thêm một đô la cho một trong những hàng hóa trên, họ có ít đi một đô la để chi cho các hàng hóa khác. Khi con người tập hợp nhau lại thành xã hội, họ đối mặt với nhiều loại đánh đổi. Ví dụ kinh điển là sự đánh đổi giữa “súng và bơ”. Chi tiêu cho quốc phòng càng nhiều để bảo vệ bờ cõi khỏi giặc ngoại xâm (súng), chúng ta có thể chi tiêu càng ít cho hàng tiêu dùng để nâng cao phúc lợi vật chất cho người dân (bơ). Sự đánh đổi quan trọng trong xã hội hiện đại là giữa môi trường trong sạch và mức thu nhập cao. Các đạo luật yêu cầu doanh nghiệp phải cắt giảm lượng chất thải gây ô nhiễm sẽ đẩy chi phí sản xuất lên cao. Do chi phí cao hơn, nên cuối cùng các doanh nghiệp này kiếm được ít lợi nhuận hơn, trả lương thấp hơn, định giá cao hơn hoặc tạo ra một kết hợp nào đó của cả ba yếu tố này. Như vậy, mặc dù các quy định về chống ô nhiễm đem lại ích lợi cho chúng ta ở chỗ làm cho môi trường trong sạch hơn và nhờ đó sức khỏe của chúng ta tốt hơn, nhưng chúng ta phải chấp nhận tổn thất là giảm thu nhập của chủ doanh nghiệp, công nhân hoặc phúc lợi của người tiêu dùng. Một sự đánh đổi khác mà xã hội đối mặt là giữa công bằng và hiệu quả. Hiệu quả có nghĩa là xã hội thu được kết quả cao nhất từ các nguồn lực khan hiếm của mình. Công bằng hàm ý ích lợi thu được từ các nguồn lực khan hiếm đó được phân phối công bằng giữa các thành viên của xã hội. Nói cách khác, hiệu quả ám chỉ quy mô của chiếc bánh kinh tế, còn công bằng nói lên chiếc bánh đó được phân chia như thế nào. Thường thì khi thiết kế các chính sách của chính phủ, người ta nhận thấy hai mục tiêu này xung đột với nhau. Chẳng hạn chúng ta hãy xem xét các chính sách nhằm đạt được sự phân phối phúc lợi kinh tế một cách công bằng hơn. Một số trong những chính sách này, ví dụ hệ thống phúc lợi xã hội hoặc bảo hiểm thất nghiệp, tìm cách trợ giúp cho những thành viên của xã hội cần đến sự cứu tế nhiều nhất. Các chính sách khác, ví dụ thuế thu nhập cá nhân, yêu cầu những người thành công về mặt tài chính phải đóng góp nhiều hơn người khác trong việc hỗ trợ cho hoạt động của chính phủ. Mặc dù các chính sách này có lợi là đạt được sự công bằng cao hơn, nhưng chúng gây ra tổn thất nếu xét từ khía cạnh hiệu quả. Khi chính phủ tái phân phối thu nhập từ người giàu sang người nghèo, nó làm giảm phần thưởng trả cho sự cần cù, chăm chỉ và kết quả là mọi người làm việc ít hơn và sản xuất ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Nói cách khác, khi chính phủ cố gắng cắt chiếc bánh kinh tế thành những phần đều nhau hơn, thì chiếc bánh nhỏ lại. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 2
  2. rằng "cận biên" có nghĩa là "bên cạnh" và bởi vậy thay đổi cận biên là những điều chỉnh ở vùng lân cận của cái mà bạn đang làm. Trong nhiều tình huống, mọi người đưa ra được quyết định tốt nhất nhờ suy nghĩ tại điểm cận biên. Giả sử bạn muốn một người bạn đưa ra lời khuyên về việc nên học bao nhiêu năm ở trường. Nếu anh ta phải so sánh cho bạn cách sống của một người có bằng tiến sĩ với một người chưa học hết phổ thông, bạn có thể sẽ phàn nàn rằng sự so sánh như thế chẳng giúp gì cho quyết định của bạn cả. Bạn đã có một số trình độ nhất định và bạn đang cần quyết định liệu có nên học thêm một hay hai năm nữa. Để ra được quyết định này, bạn cần biết ích lợi tăng thêm nhờ học thêm một năm nữa (tiền lương cao hơn trong suốt cuộc đời, niềm vui được chuyên tâm học hành) và biết chi phí tăng thêm mà bạn sẽ phải chịu (học phí và tiền lương mất đi trong bạn vẫn học ở trường). Bằng cách so sánh ích lợi cận biên và chi phí cận biên, bạn có thể đi đến kết luận rằng việc học thêm một năm có đáng giá hay không. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ khác. Một hãng hàng không đang cân nhắc nên tính giá vé bao nhiêu cho các hành khách bay dự phòng. Giả sử một chuyến bay với 200 chỗ từ đông sang tây làm cho nó tốn mất 100.000 đô la. Trong tình huống này, chi phí bình quân cho mỗi chỗ ngồi là 100.000 đô la/200, tức 500 đô la. Người ta có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng hãng hàng không này sẽ không bao giờ nên bán vé với giá thấp hơn 500 đô la. Song trên thực tế, nó có thể tăng lợi nhuận nhờ suy nghĩ ở điểm cận biên. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng máy bay sắp sửa cất cánh trong khi vẫn còn 10 ghế bỏ trống và có một hành khách dự phòng đang đợi ở cửa sẵn sàng trả 300 đô la cho một ghế. Hãng hàng không này có nên bán vé cho anh ta không? Dĩ nhiên là nên. Nếu máy bay vẫn còn ghế trống, chi phí của việc bổ sung thêm một hành khách là không đáng kể. Mặc dù chi phí bình quân cho mỗi hành khách trên chuyến bay là 500 đô la, chi phí cận biên chỉ bằng giá của gói lạc và hộp nước sô đa mà hành khách tăng thêm này sẽ tiêu dùng. Chừng nào mà người hành khách dự phòng này còn trả cao hơn chi phí cận biên, thì việc bán vé cho anh ta còn có lợi. Những ví dụ trên cho thấy rằng các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định tốt hơn nhờ cách suy nghĩ ở điểm cận biên. Người ra quyết định duy lý hành động chỉ khi ích lợi cận biên vượt quá chi phí cận biên. Nguyên lý 4: Con người phản ứng với các kích thích Vì mọi người ra quyết định dựa trên sự so sánh chi phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi ích lợi hoặc chi phí thay đổi. Nghĩa là mọi người phản ứng đối với các kích thích. Ví dụ khi giá táo tăng, mọi người quyết định ăn nhiều lê hơn và ít táo hơn, vì chi phí của việc mua táo cao hơn. Đồng thời, người trồng táo quyết định thuê thêm công nhân và thu hoạch nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ việc bán táo cũng cao hơn. Như chúng ta sẽ thấy, tác động của giá cả lên hành vi của người mua và người bán trên thị trường - trong trường hợp này là thị trường táo - có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu phương thức vận hành của nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách công cộng không bao giờ được quên các kích thích, vì nhiều chính sách làm thay đổi ích lợi hoặc chi phí mà mọi người phải đối mặt và bởi vậy làm thay đổi hành vi của họ. Ví dụ việc đánh thuế xăng khuyến khích mọi người sử dụng ô tô nhỏ hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn. Nó cũng khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện giao thông NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 4
  3. Kiểm tra nhanh: Hãy liệt kê và giải thích ngắn gọn bốn nguyên lý liên quan đến ra quyết định cá nhân. CON NGƯỜI TƯƠNG TÁC VỚI NHAU NHƯ THẾ NÀO? Bốn nguyên lý đầu tiên bàn về cách thức ra quyết định cá nhân. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, nhiều quyết định của chúng ta không chỉ ảnh hưởng đến bản thân chúng ta, mà còn tác động đến những người xung quanh. Ba nguyên lý tiếp theo liên quan đến cách thức mà con người tương tác với nhau. Nguyên lý 5: Thương mại có thể làm cho mọi người đều được lợi Có lẽ bạn đã nghe trên bản tin thời sự rằng người Nhật là những đối thủ cạnh tranh của chúng ta trong nền kinh tế thế giới. Xét trên một vài khía cạnh, điều này là đúng vì các công ty Nhật và Mỹ sản xuất nhiều mặt hàng giống nhau. Hãng Ford và hãng Toyota cạnh tranh để thu hút cùng một nhóm khách hàng trên thị trường ô tô. Compaq cũng cạnh tranh với Toshiba trên thị trường máy tính cá nhân để thu hút cùng một nhóm khách hàng. Vì vậy, người ta rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước. Thương mại giữa Nhật và Mỹ không giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người thua. Sự thật thì điều ngược lại mới đúng: Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi. Để lý giải tại sao, hãy xem xét thương mại tác động như thế nào tới gia đình bạn. Khi một thành viên trong gia đình bạn đi tìm việc, anh ta phải cạnh tranh với những thành viên của các gia đình khác cũng đang tìm việc. Các gia đình cạnh tranh nhau khi đi mua hàng vì gia đình nào cũng muốn mua hàng chất lượng tốt nhất với giá thấp nhất. Vì vậy theo một nghĩa nào đó, mỗi gia đình đều đang cạnh tranh với tất cả các gia đình khác. Cho dù có sự cạnh tranh này, gia đình bạn cũng không thể có lợi hơn nếu tự cô lập với tất cả các gia đình khác. Nếu làm như vậy, gia đình bạn sẽ phải tự trồng trọt, chăn nuôi, may quần áo và xây dựng nhà ở cho mình. Rõ ràng gia đình bạn thu lợi nhiều từ khả năng tham gia trao đổi với các gia đình khác. Thương mại cho phép mỗi người chuyên môn hóa vào một lĩnh vực mà mình làm tốt nhất, cho dù đó là trồng trọt, may mặc hay xây nhà. Thông qua hoạt động thương mại với những người khác, con người có thể mua được những hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn với chi phí thấp hơn. Cũng như các gia đình, các nước được lợi từ khả năng trao đổi với các nước khác. Thương mại cho phép các nước chuyên môn hóa vào lĩnh vực mà họ làm tốt nhất và thưởng thức nhiều hàng hóa và dịch vụ phong phú hơn. Người Nhật, cũng như người Pháp, người Ai Cập và người Brazil là những bạn hàng của chúng ta trong nền kinh tế thế giới, nhưng cũng là đối thủ cạnh tranh của chúng ta. Nguyên lý 6: Thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu có lẽ là thay đổi quan trọng nhất trên thế giới trong nửa thế kỷ qua. Các nước cộng sản hoạt động dựa trên tiền đề là các nhà làm kế hoạch trong chính phủ trung ương có thể định hướng hoạt động kinh tế một cách tốt nhất. Các nhà làm kế hoạch đó quyết định xã hội sản xuất hàng hóa và dịch vụ nào, sản xuất bao nhiêu, ai là người sản xuất và ai được phép tiêu dùng chúng. Lý thuyết hậu thuẫn cho quá NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 6
  4. Mỹ ký bản Tuyên ngôn độc lập. Song cả hai văn bản này đều chia sẻ cùng một quan điểm rất thịnh hành thời bấy giờ - đó là thường tốt hơn nếu để mặc cho các cá nhân tự xoay sở mà không cần đến bàn tay thô bạo của chính phủ chỉ đạo hành động của họ. Triết lý chính trị này tạo ra cơ sở tư tưởng cho nền kinh tế thị trường và nói rộng hơn là cho một xã hội tự do. Tại sao nền kinh tế thị trường lại vận hành tốt như vậy? Phải chăng là vì con người chắc chắn sẽ đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng nhân từ? Hoàn toàn không phải như vậy. Những dòng dưới đây là lời của Adam Smith bàn về cách thức con người tác động qua lại trong nền kinh tế thị trường: “Con người hầu như thường xuyên cần tới sự giúp đỡ của anh em và bạn bè, và sẽ là phí hoài công sức nếu anh ta chỉ trông chờ vào lòng nhân từ của họ. Có lẽ anh ta sẽ giành được nhiều lợi thế cho mình hơn khi thu hút được niềm đa mê của bản thân họ và làm cho họ tin rằng việc làm theo yêu cầu của anh ta có lợi cho chính bản thân họ Không phải nhờ lòng nhân từ của những người bán thịt, chủ cửa hàng rượu hay người bán bánh mì mà chúng ta có được bữa tối, mà chính là nhờ lợi ích riêng của họ Mỗi cá nhân thường không có ý định phụng sự lợi ích của cộng đồng, và anh ta cũng không hề biết mình đang cống hiến cho nó bao nhiêu. Anh ta chỉ muốn giành được mối lợi cho bản thân mình, và trong khi làm như vậy, cũng như trong nhiều trường hợp khác, anh ta được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình hướng tới việc phụng sự cho một mục đích nằm ngoài dự định của anh ta. Song không phải lúc nào cũng là tồi tệ đối với xã hội nếu điều đó nằm ngoài dự định của anh ta. Khi theo đuổi ích lợi riêng của mình, anh ta thường phụng sự cho ích lợi xã hội một cách có hiệu quả hơn là trường hợp anh ta thực sự dự định làm như vậy.” Khi viết những câu trên đây, Smith muốn nhấn mạnh rằng những người tham gia vào nền kinh tế thị trường bị thúc đẩy bởi ích lợi riêng và rằng "bàn tay vô hình" của thị trường hướng ích lợi này vào việc phụng sự cho phúc lợi kinh tế chung. Rất nhiều nhận thức của Smith vẫn đóng vai trò trung tâm của kinh tế học hiện đại. Phân tích của chúng ta trong các chương tới sẽ cho phép chúng ta diễn giải những kết luận của Smith một cách chính xác hơn và phân tích đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu trong bàn tay vô hình của thị trường. Nguyên lý 7: Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường Nếu như bàn tay vô hình của thị trường kỳ diệu đến vậy, thì tại sao chúng ta lại cần chính phủ? Một lý do là bàn tay vô hình cần được chính phủ bảo vệ. Thị trường chỉ hoạt động nếu như quyền sở hữu được tôn trọng. Một nông dân sẽ không trồng lúa nếu như anh ta nghĩ rằng mùa màng sẽ bị đánh cắp, một nhà hàng sẽ không phục vụ trừ khi được đảm bảo rằng khách hàng sẽ trả tiền trước khi rời quán. Tất cả chúng ta đều dựa vào công an và tòa án do chính phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những thứ do chúng ta tạo ra. Một lý do khác cần đến chính phủ là mặc dù thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế, nhưng quy tắc cũng có vài ngoại lệ quan trọng. Có hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế là: thúc đẩy hiệu quả và sự công bằng. Nghĩa là hầu hết các chính sách đều hoặc nhằm vào mục tiêu làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên, hoặc làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó. Bàn tay vô hình thường dẫn dắt thị trường phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Song vì các nguyên nhân khác nhau, đôi khi bàn tay vô hình không hoạt động. Các nhà kinh tế học sử NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 8
  5. nhiều ti vi hơn, nhiều ô tô hơn, chế độ dinh dưỡng tốt hơn, dịch vụ y tế tốt hơn và tuổi thọ cao hơn người dân ở các nước thu nhập thấp. Những thay đổi mức sống theo thời gian cũng rất lớn. Trong lịch sử, thu nhập ở Mỹ tăng khoảng 2% một năm (sau khi đã loại trừ những thay đổi trong giá sinh hoạt). Với tốc độ tăng trưởng này, cứ 35 năm thu nhập bình quân lại tăng gấp đôi. Trong thế kỷ qua, thu nhập bình quân đã tăng gấp tám lần. Đâu là nguyên nhân của sự khác biệt to lớn về mức sống giữa các quốc gia và theo thời gian? Câu trả lời đơn giản đến mức đáng ngạc nhiên. Hầu hết sự khác biệt về mức sống có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của các quốc gia - tức số lượng hàng hóa được làm ra trong một giờ lao động của một công nhân. Ở những quốc gia người lao động sản xuất được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, hầu hết người dân được hưởng mức sống cao; còn ở các quốc gia có năng suất kém hơn, hầu hết người dân phải chịu cuộc sống đạm bạc. Tương tự, tốc độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó. Mối quan hệ cơ bản giữa năng suất và mức sống khá đơn giản, nhưng có những hàm ý sâu rộng. Nếu năng suất là nhân tố thiết yếu quyết định mức sống, thì những lý do khác phải đóng vai trò thứ yếu. Chẳng hạn, người ta có thể cảm nhận rằng nghiệp đoàn hoặc luật về tiền lương tối thiểu có đóng góp làm tăng mức sống của công nhân Mỹ trong thế kỷ qua. Song người anh hùng thật sự của công nhân Mỹ là năng suất lao động ngày càng tăng lên của họ. Một ví dụ khác là một số nhà bình luận cho rằng sự cạnh tranh tăng lên từ Nhật và các nước khác là nguyên nhân dẫn tới mức tăng trưởng chậm trong thu nhập quốc dân của Mỹ suốt 30 năm qua. Nhưng tên tội phạm thực sự không phải là sự cạnh tranh từ nước ngoài, mà chính là sự tăng trưởng chậm của năng suất ở Mỹ. Mối liên hệ giữa năng suất và mức sống còn có hàm ý sâu sắc đối với chính sách của nhà nước. Khi suy nghĩ xem chính sách bất kỳ sẽ tác động như thế nào đến mức sống, vấn đề then chốt là nó sẽ tác động tới năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ như thế nào. Để nâng cao mức sống, các nhà hoạch định chính sách cần làm tăng năng suất lao động bằng cách đảm bảo cho công nhân được đào tạo tốt, có đủ các công cụ cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch vụ và được tiếp cận những công nghệ tốt nhất hiện có. Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền Vào tháng 1 năm 1921, giá một tờ nhật báo ở Đức là 0,3 mác. Chưa đầy hai năm sau, vào tháng 11 năm 1922 cũng tờ báo ấy giá 70.000.000 mác. Giá của tất cả các mặt hàng khác trong nền kinh tế cũng tăng với tốc độ tương tự. Đây là một trong những ví dụ ngoạn mục nhất lịch sử về lạm phát- tức sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế. Mặc dù nước Mỹ chưa từng trải qua cuộc lạm phát nào tương tự như ở Đức vào những năm 1920, nhưng đôi khi lạm phát cũng là một vấn đề kinh tế. Ví dụ trong những năm 1970, mức giá chung tăng gấp hơn hai lần và tổng thống Gerald Ford đã gọi lạm phát là "kẻ thù số một của công chúng". Ngược lại, lạm phát trong những năm 1990 chỉ khoảng 3% một năm; với tỷ lệ này, giá cả phải mất hơn hai mươi năm để tăng gấp đôi. Vì lạm phát cao gây nhiều tổn thất cho xã hội, nên giữ cho lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế trên toàn thế giới. Nguyên nhân gây ra lạm phát là gì? Trong hầu hết các trường hợp lạm phát trầm trọng hoặc kéo dài, dường như đều có chung một thủ phạm - sự gia tăng của lượng tiền. Khi chính phủ NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 10
  6. KẾT LUẬN Giờ đây bạn đã biết đôi chút về kinh tế học. Trong những chương tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm nhiều điều sâu sắc hơn về con người, thị trường và nền kinh tế. Để nắm được những vấn đề này, chúng ta cần phải nỗ lực một chút, nhưng chúng ta sẽ làm được. Kinh tế học dựa trên một số ít ý tưởng căn bản để từ đó có thể áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau. Xuyên suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ còn quay lại với Mười Nguyên lý của kinh tế học đã được làm sáng tỏ trong chương này và tóm tắt trong bảng Bạn hãy nhớ rằng, ngay cả những phân tích kinh tế phức tạp nhất cũng được xây dựng trên nền tảng của mười nguyên lý này. TÓM TẮT  Những bài học căn bản về ra quyết định cá nhân là: con người đối mặt với sự đánh đổi giữa các mục tiêu khác nhau, chi phí của bất kỳ hành động nào cũng được tính bằng những cơ hội bị bỏ qua, con người duy lý đưa ra quyết định dựa trên sự so sánh giữa chi phí và ích lợi cận biên, và cuối cùng là con người thay đổi hành vi để đáp lại các kích thích mà họ phải đối mặt.  Những bài học căn bản về sự tác động qua lại giữa con người với nhau là: thương mại (tức trao đổi) có thể đem lại ích lợi cho cả hai bên, thị trường thường là cách thức tốt phối hợp trao đổi buôn bán giữa mọi người, và chính phủ có thể cải thiện các kết cục thị trường khi một thất bại thị trường nào đó tồn tại hay khi kết cục thị trường không công bằng.  Những bài học căn bản về nền kinh tế với tư cách một tổng thể là: năng suất là nguồn gốc cuối cùng của mức sống, sự gia tăng lượng tiền là nguyên nhân cuối cùng của lạm phát và xã hội đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 1 – Mười nguyên lý của kinh tế học 12