Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 5: Chi phí sản xuất

Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc thảo luận về chi phí của Nhà máy Bánh ngọt Hungry Helen.
Helen, người chủ nhà máy đã mua bột mỳ, đường, va ni và các nguyên liệu làm bánh khác.
Cô cũng mua máy trộn bột, lò nướng và thuê công nhân để vận hành thiết bị. Sau đó, cô bán
những chiếc bánh làm ra cho người tiêu dùng. Qua một số công việc mà Helen phải làm khi
thực hiện công việc kinh doanh của mình như trên, chúng ta có thể rút ra một số bài học áp
dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
pdf 18 trang xuanthi 28/12/2022 2840
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 5: Chi phí sản xuất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nguyen_ly_kinh_te_hoc_chuong_5_chi_phi_san_xuat.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nguyên lý kinh tế học - Chương 5: Chi phí sản xuất

  1. là tối đa hóa lợi nhuận và họ thấy rằng giả thiết này đúng trong hầu hết các trường hợp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là gì? Lượng tiền doanh nghiệp nhận được từ việc bán sản phẩm của mình (bánh ngọt) gọi là tổng doanh thu. Lượng tiền mà doanh nghiệp phải trả để mua các đầu vào (bột mỳ, đường, công nhân, lò nướng ) gọi là tổng chi phí. Helen sẽ giữ lại số tiền còn lại sau khi đã trừ chi phí. Chúng ta định nghĩa lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí. Nghĩa là Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Mục tiêu của Helen là làm cho lợi nhuận của nhà máy lớn đến mức có thể. Để biết doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nào, chúng ta phải xem xét toàn diện cách tính tổng doanh thu và tổng chi phí. Tổng doanh thu tương đối dễ hiểu: Nó bằng sản lượng của doanh nghiệp nhân với giá bán sản phẩm. Nếu nhà máy của Helen sản xuất 10.000 chiếc bánh ngọt và bán chúng với giá 2 đô la một chiếc, tổng doanh thu của cô sẽ bằng 20.000 đô la. Ngược lại, việc tính tổng chi phí của doanh nghiệp khó hơn nhiều. Chi phí tính bằng chi phí cơ hội Khi tính chi phí của nhà máy bánh ngọt Hungry Helen hay của bất kỳ doanh nghiệp nào khác, điều quan trọng là chúng ta cần nhớ tới một trong Mười Nguyên lý của Kinh tế học ở chương 1: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải bỏ ra để có được thứ đó. Hãy nhớ lại rằng chi phí cơ hội của một vật là tất cả những vật khác bạn phải bỏ qua để có được nó. Khi các nhà kinh tế nói về chi phí sản xuất của doanh nghiệp, họ tính tất cả chi phí cơ hội phát sinh trong quá trình sản xuất ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ. Chi phí cơ hội của sản xuất có khi rõ ràng, có khi không. Khi Helen trả 1.000 đô la để mua bột mỳ, thì 1.000 đô la đó là chi phí cơ hội, bởi vì Helen không thể dùng 1.000 đô la đó để mua thứ khác nữa. Tương tự, khi Helen thuê công nhân nướng bánh, tiền lương cô phải trả là một phần chi phí của doanh nghiệp. Đây là những chi phí hiện. Ngược lại, một số chi phí cơ hội là chi phí ẩn. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng Helen thạo máy tính và có thể kiếm 100 đô la/giờ khi làm công việc của chuyên viên máy tính. Mỗi giờ Helen sử dụng để làm việc trong nhà máy bánh ngọt, cô mất đi 100 đô la thu nhập và phần thu nhập mất đi này cũng là một phần chi phí của cô. Sự khác biệt này giữa chi phí ẩn và chi phí hiện cho chúng ta thấy điểm khác nhau quan trọng giữa phương pháp phân tích doanh nghiệp của nhà kinh tế và các kế toán viên. Các nhà kinh tế quan tâm đến việc nghiên cứu cách thức doanh nghiệp ra quyết định về sản xuất và giá cả. Bởi vì những quyết định này dựa vào cả chi phí hiện và chi phí ẩn, nên các nhà kinh tế xem xét cả hai khi tính chi phí của doanh nghiệp. Ngược lại, các kế toán viên làm công việc theo dõi các dòng tiền luân chuyển ra và vào doanh nghiệp. Do vậy, họ phải tính các chi phí hiện, nhưng thường bỏ qua chi phí ẩn. Sự khác biệt giữa nhà kinh tế và kế toán viên thật dễ nhận ra trong trường hợp cụ thể của nhà máy bánh ngọt Helen. Khi Helen bỏ cơ hội kiếm tiền với tư cách chuyên viên máy tính, kế toán viên của cô không tính nó vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì không có luồng tiền nào chảy ra khỏi nhà máy để trả cho chi phí đó, nên nó không được biểu thị trên các bảng kết toán tài chính của kế toán viên. Nhưng nhà kinh tế coi phần thu nhập mất đi là một khoản chi phí, bởi vì nó tác động đến quyết định mà Helen đưa ra trong công việc kinh doanh của mình. Ví dụ, nếu tiền lương của Helen với tư cách chuyên viên máy tính tăng từ 100 đô la lên 500 đô la/giờ, cô có thể nghĩ rằng việc điều hành nhà máy bánh ngọt quá tốn NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 2
  2. Bây giờ, chúng ta hãy quay trở lại mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Bởi vì nhà kinh tế và kế toán viên tính chi phí khác nhau, nên họ cũng tính lợi nhuận khác nhau. Nhà kinh tế tính lợi nhuận kinh tế của doanh nghiệp bằng cách lấy tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ tổng tất cả các chi phí cơ hội (bao gồm chi phí hiện và chi phí ẩn) của việc sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Kế toán viên tính lợi nhuận kế toán của doanh nghiệp bằng cách lấy tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ các khoản chi phí hiện của nó. Hình 1 biểu thị sự khác nhau này. Cần chú ý rằng do kế toán viên bỏ qua các chi phí ẩn, nên lợi nhuận kế toán lớn hơn lợi nhuận kinh tế. Để một doanh nghiệp có lợi nhuận theo quan điểm của nhà kinh tế, tổng doanh thu phải bù đắp được tất cả các chi phí cơ hội, kể cả chi phí hiện và chi phí ẩn. Kiểm tra nhanh: Bác nông dân McDonald dạy đàn với giá 20 đô la/giờ. Mỗi ngày ông dành 10 tiếng để trồng hạt giống trị giá 100 đô la trên trang trại của mình. Tính chi phí cơ hội của ông? Nếu hạt giống nảy mầm và ông thu hoạch được số nông sản trị giá 200 đô la, thì theo cách tính lợi nhuận kế toán, ông sẽ thu được lợi nhuận bao nhiêu? Ông có lợi nhuận kinh tế không? SẢN XUẤT VÀ CHI PHÍ Các doanh nghiệp phải chịu chi phí khi họ mua nguyên liệu để sản xuất hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ mà họ dự kiến. Trong phần này, chúng ta hãy xem xét mối quan hệ giữa quá trình sản xuất của doanh nghiệp và tổng chi phí của nó. Một lần nữa, chúng ta trở lại với nhà máy bánh ngọt của Helen. Trong phần phân tích tiếp theo, chúng ta đưa ra một giả định đơn giản hóa rất quan trọng: Chúng ta sẽ giả định rằng quy mô nhà máy của Helen là cố định và Helen chỉ có thể thay đổi lượng bánh sản xuất bằng cách thay đổi số lượng công nhân. Giả định này sát với thực tế trong ngắn hạn, nhưng không đúng trong dài hạn. Nghĩa là Helen không thể xây dựng một nhà máy lớn hơn trong một đêm, nhưng cô có thể làm như vậy trong một hay vài năm. Do đó, phần phân tích này nên được coi là sự mô tả các quyết định sản xuất mà Helen phải đối mặt trong ngắn hạn. Chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa chi phí và thời gian một cách đầy đủ hơn ở phần sau của chương này. Hàm sản xuất Bảng 13.1 cho thấy lượng bánh ngọt mà nhà máy của Helen sản xuất ra trong một giờ phụ thuộc vào số lượng công nhân. Nếu không có công nhân trong nhà máy, Helen không sản xuất chiếc bánh nào cả. Khi có một công nhân, cô sản xuất 50 chiếc bánh. Khi có 2 công nhân, cô sản xuất 90 chiếc, và vân vân. Hình 2 vẽ đồ thị từ hai cột số liệu của bảng 1. Số lượng công nhân được ghi trên trục hoành, còn lượng bánh ngọt sản xuất ghi trên trục tung. Mối quan hệ giữa lượng đầu vào (công nhân) và sản lượng (bánh ngọt) được gọi là hàm sản xuất. Số Sản lượng Sản phẩm Chi phí Chi phí trả Tổng chi phí đầu vào công (lượng bánh cận biên của của nhà cho công (Chi phí của nhà máy + nhân ngọt sản xuất lao động máy (đôla) nhân (đôla) Lương trả cho công mỗi giờ) nhân) (đô la) 0 0 - 30 0 30 1 50 50 30 10 40 NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 4
  3. Quy luật sản phẩm cận biên giảm dần cũng thể hiện rõ trong hình 2. Độ dốc của hàm sản xuất (bằng tung độ chia cho hoành độ) cho ta biết mức thay đổi sản lượng bánh ngọt của Helen (“tung độ”) cho mỗi đầu vào lao động tăng thêm (“hoành độ”). Nghĩa là độ dốc của hàm sản xuất phản ánh sản phẩm cận biên của một công nhân. Khi số công nhân tăng, sản phẩm cận biên giảm và hàm sản xuất trở nên phẳng hơn. Từ hàm sản xuất đến đường tổng chi phí Ba cột cuối cùng của bảng 1 ghi chi phí sản xuất bánh ngọt của Helen. Trong ví dụ này, chi phí của cô là 30 đô la một giờ và chi phí trả cho công nhân là 10 đô la một giờ. Nếu cô thuê 1 công nhân, tổng chi phí của cô bằng 40 đô la. Nếu cô thuê 2 công nhân, tổng chi phí của cô bằng 50 đô la, vân vân. Nhờ thông tin này, giờ đây bảng trên cho chúng ta biết số công nhân mà Helen thuê có mối quan hệ như thế nào với lượng bánh ngọt mà cô sản xuất và với tổng chi phí sản xuất của cô. Tổng chi phí (đô la) Đường tổng chi phí 80 70 60 50 40 30 20 10 0 20 40 60 80 100 120 140 Sản lượng (Số bánh mỗi giờ) Hình 3. Đường tổng chi phí của công ty Hungry Helen. Đường tổng chi phí chỉ ra mối quan hệ giữa sản lượng được sản xuất ra và tổng chi phí sản xuất. Sản lượng (trên trục hoành) được lấy từ cột thứ hai trong bảng 1 và tổng chi phí (trục tung) lấy từ cột thứ sáu. Độ dốc của đường tổng chi phí khi sản lượng tăng do quy luật sản phẩm cận biên giảm dần. Mục đích của chúng ta trong nhiều chương tiếp theo là nghiên cứu các quyết định sản xuất và định giá của doanh nghiệp. Đối với mục đích này, mối quan hệ quan trọng nhất trong bảng 1 là giữa sản lượng sản xuất (cột thứ hai) và tổng chi phí (cột thứ sáu). Hình 3 vẽ đồ thị từ số liệu của của hai cột này với sản lượng sản xuất trên trục hoành và tổng chi phí trên trục tung. Đồ thị này gọi là đường tổng chi phí. Hãy chú ý rằng đường tổng chi phí ngày càng dốc khi sản lượng tăng. Hình dạng của đường tổng chi phí trong hình này phản ánh hình dạng của hàm sản xuất trong hình 2. Chúng ta hãy nhớ lại rằng khi xưởng làm bánh của Helen đông công nhân, thì mỗi công nhân tăng thêm sản xuất được lượng bánh ngọt ít hơn; quy luật sản phẩm cận biên giảm NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 6
  4. Cột thứ nhất ghi số cốc nước chanh mà bà Thelma có thể sản xuất, từ 0 đến 10 cốc mỗi giờ. Cột thứ hai ghi tổng chi phí sản xuất nước chanh của Thelma. Hình 4 vẽ đường tổng chi phí. Lượng nước chanh (số liệu ở cột thứ nhất) được ghi trên trục hoành và tổng chi phí (số liệu ở cột thứ hai) được ghi trên trục tung. Đường tổng chi phí của Thelma có hình dạng tương tự đường tổng chi phí của Helen. Cụ thể, nó trở nên dốc hơn khi sản lượng tăng và điều này cho biết (như đã thảo luận) sản phẩm cận biên giảm dần. Chi phí cố định và biến đổi Tổng chi phí của Thelma có thể phân thành 2 loại. Một số chi phí, gọi là chi phí cố định, không thay đổi theo lượng sản phẩm sản xuất. Chúng tồn tại ngay cả khi nhà máy không sản xuất gì cả. Chi phí cố định của Thelma bao gồm tiền thuê nhà mà bà phải trả bởi vì khoản chi phí này không thay đổi, bất kể bà sản xuất bao nhiêu nước chanh. Tương tự, nếu Thelma cần thuê người thư ký làm cả ngày để theo dõi hóa đơn, tiền lương của anh ta cũng là chi phí cố định. Cột thứ ba trong bảng 2 ghi chi phí cố định của doanh nghiệp Thelma. Trong ví dụ của chúng ta, nó bằng 3 đô la một giờ. Tổng chi phí (đô la) 16.00 Đường tổng chi phí 14.00 12.00 10.00 8.00 6.00 4.00 2.00 $0.00 0 2 4681012 Sản lượng (Số cốc nước chanh mỗi giờ) Hình 4. Đường tổng chi phí của công ty Thursty Thelma. Sản lượng (trên trục hoành) được lấy từ cột thứ nhất trong bảng 1 và tổng chi phí (trên trục tung) lấy từ cột thứ hai. Độ dốc của hàm sản xuất tăng dần khi sản lượng tăng do sản lượng cận biên giảm dần. Một số chi phí của doanh nghiệp, gọi là chi phí biến đổi, thay đổi khi doanh nghiệp thay đổi mức sản lượng được sản xuất ra. Chi phí biến đổi của Thelma bao gồm chi phí chanh và đường: càng sản xuất nhiều nước chanh, bà càng phải mua nhiều chanh và đường. Tương tự, nếu bà phải thuê thêm công nhân để chế biến thêm nước chanh, tiền lương của những công nhân đó cũng là chi phí biến đổi. Cột thứ tư ghi chi phí biến đổi. Chi phí biến đổi bằng 0 khi Thelma không sản xuất gì, bằng 0,3 đô la khi bà sản xuất 1 cốc nước chanh, bằng 0,8 đô la khi bà sản xuất 2 cốc, v.v NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 8
  5. Nếu như trong các chương trước chúng ta thấy đồ thị cung và cầu hữu ích như thế nào đối với việc phân tích sự vận hành của thị trường, thì chúng ta cũng sẽ thấy các đường chi phí bình quân và chi phí cận biên hữu ích như thế đối với việc phân tích hành vi của doanh nghiệp. Hình 5 vẽ các đường phản ánh chi phí của Thelma từ số liệu trong bảng 2. Trục hoành ghi lượng hàng mà doanh nghiệp này sản xuất ra, còn trục tung ghi chi phí bình quân và chi phí cận biên. Hình này có 4 đường: đường chi phí bình quân (ATC), chi phí cố định bình quân (AFC), chi phí biến đổi bình quân (AVC) và chi phí cận biên (MC). Các đường chi phí của nhà máy Thelma có một số thuộc tính bình thường như các đường chi phí của nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chúng ta hãy xem xét ba thuộc tính cụ thể: hình dạng của đường chi phí cận biên, hình dạng của đường chi phí bình quân và mối quan hệ giữa chi phí bình quân và chi phí cận biên. Chi phí cận biên tăng dần. Chi phí cận biên của Thelma tăng lên cùng với sản lượng sản xuất. Điều này phản ánh quy luật sản phẩm biên giảm dần. Khi Thelma đang sản xuất một lượng nhỏ nước chanh, bà thuê ít công nhân và nhiều thiết bị không được sử dụng. Bởi vì bà có thể dễ dàng sử dụng những nguồn lực nhàn rỗi này, nên sản phẩm cận biên của mỗi công nhân tăng thêm lớn và chi phí cận biên cho một cốc nước chanh tăng thêm nhỏ. Ngược lại, khi Thelma đang sản xuất lượng lớn nước chanh, xưởng sản xuất của bà đã có quá nhiều công nhân và hầu hết thiết bị của bà đã được sử dụng hết. Bà Thelma có thể sản xuất nhiều nước chanh hơn bằng cách thuê thêm công nhân, nhưng công nhân mới phải làm việc trong điều kiện chật chội và có thể phải chờ đợi để được sử dụng thiết bị. Bởi vậy, khi lượng nước chanh được sản xuất đã ở mức cao, sản phẩm cận biên của mỗi công nhân tăng thêm thấp và chi phí cận biên của mỗi cốc nước chanh lớn. Chi phí bình quân dạng chữ U. Đường chi phí bình quân của Thelma có dạng chữ U. Để hiểu tại sao lại như vậy, chúng ta hãy nhớ lại rằng chi phí bình quân bằng chi phí cố định bình quân cộng với chi phí biến đổi bình quân. Chi phí cố định bình quân liên tục giảm khi sản lượng tăng, bởi vì chi phí cố định được phân bổ cho số lượng đơn vị sản lượng ngày càng lớn hơn. Chi phí biến đổi bình quân tăng khi sản lượng tăng bởi vì nhìn chung sản phẩm cận biên giảm dần. Chi phí bình quân phản ánh hình dạng của cả chi phí cố định bình quân và chi phí biến đổi bình quân. Tại các mức sản lượng rất thấp, như 1 hay 2 cốc nước chanh mỗi giờ, chi phí bình quân cao bởi vì chi phí cố định chỉ được phân bổ cho một số ít đơn vị sản phẩm. Khi đó chi phí bình quân giảm vì sản lượng tăng cho đến khi sản lượng của doanh nghiệp tăng lên 5 cốc nước chanh mỗi giờ, tức khi chi phí bình quân giảm xuống 1,3 đô la mỗi cốc. Khi doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn 6 cốc, chi phí bình quân bắt đầu tăng bởi vì chi phí biến đổi bình quân tăng mạnh. Chi phí (đô la) 3.50 3.00 2.50 MC 2.00 1.50 ATC AVC 1.00 0.50 NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC AFC 0.00 Chương 5 – Chi phí sản xuất 10 0 2 4681012 Sản lượng (Số ố ớ hhỗiiờ)
  6. có sản phẩm cận biên cao hơn người thứ nhất, bởi vì tập thể công nhân này có thể phân công nhiệm vụ và làm việc có năng suất hơn một công nhân riêng lẻ. Những doanh nghiệp như vậy ban đầu có sản phẩm cận biên tăng, sau đó mới có sản phẩm cận biên giảm dần. Bảng 3 ghi số liệu về chi phí của một doanh nghiệp như vậy, có tên là Bagel Bin của Big Bob. Những số liệu này được sử dụng để vẽ các đồ thị trong hình 6. Phần (a) cho biết tổng chi phí (TC) phụ thuộc vào sản lượng được sản xuất ra như thế nào và phần (b) cho biết chi phí bình quân (ATC), chi phí cố định bình quân (AFC), chi phí biến đổi bình quân (AVC) và chi phí cận biên (MC). Trong khoảng biến thiên của sản lượng từ 0 đến 4 thùng một giờ, doanh nghiệp có sản phẩm cận biên tăng dần, và đường chi phí cận biên giảm. Sau mức sản lượng 5 thùng mỗi giờ, doanh nghiệp bắt đầu trải qua thời kỳ sản phẩm cận biên giảm dần và đường chi phí cận biên bắt đầu tăng. Sự kết hợp của chiều hướng tăng, sau đó giảm, cũng tạo ra đường chi phí biến đổi bình quân dạng chữ U. Lượng Tổng chi Chi phí Chi phí Chi phí cố Chi phí Chi phí Chi phí (mỗi giờ) phí cố định biến đổi định bình biến đổi bình quân cận biên (đô la) (đô la) (đô la) quân bình quân (đô la) (đô la) (đô la) (đô la) 0 2.00 2.00 0.00 ___ ___ ___ 1 3.00 2.00 1.00 2.00 1.00 3.00 1.00 2 3.80 2.00 1.80 1.00 0.90 1.90 0.80 3 4.40 2.00 2.40 0.67 0.80 1.47 0.60 4 4.80 2.00 2.80 0.50 0.70 1.20 0.40 5 5.20 2.00 3 20 0.40 0.64 1.04 0.40 6 5.80 2.00 3.80 0.33 0.63 0.96 0.60 7 6.60 2.00 4.60 0.29 0.66 0.95 0.80 8 7.60 2.00 5.60 0.25 0.70 0.95 1.00 9 8.80 2.00 6.80 0.22 0.76 0.98 1.20 10 10 20 2.00 8.20 0.20 0.82 1.02 1.40 11 11.80 2.00 9.80 0.18 0.89 1.07 1.60 12 13.60 2.00 11.60 0.17 0.97 1.14 1.80 13 15.60 2.00 13.60 0.15 1.05 1.20 2.00 14 17.80 2.00 15.80 0.14 1.13 1.27 2,20 Bảng 3. Các đại lượng khác nhau về chi phí: Doanh nghiệp Bagel Bin. Mặc dù những khác biệt so với những ví dụ trước của chúng ta, đường chi phí của Big Bob đã vẫn có đủ ba đặc tính quan trọng nhất cần phải ghi nhớ sau: ○ Chi phí cận biên có thể tăng cùng với mức sản lượng ○ Đường tổng chi phí bình quân có dạng dạng chữ U. ○ Đường chi phí cận biên cắt đường tổng chi phí bình quân tại điểm thấp nhất của tổng chi phí bình quân. ○ 20.0 Tổng chi phí (đô 0 18.00 la) Đường tổng chi phí 16.00 14.00 NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC 12.00 Chương 5 – Chi phí sản xuất 12 10.00 80
  7. Đối với nhiều doanh nghiệp, sự phân chia tổng chi phí thành chi phí biến đổi và chi phí cố định phụ thuộc vào độ dài thời gian. Ví dụ chúng ta hãy xem xét một nhà sản xuất ô tô, như công ty Ford Motor. Chỉ trong khoảng thời gian một vài tháng, công ty Ford không thể thay đổi được số lượng hay quy mô nhà máy sản xuất ô tô của mình. Cách duy nhất để nó sản xuất thêm ô tô là thuê thêm công nhân làm việc trong những nhà máy hiện có. Bởi vậy, chi phí của những nhà máy này là chi phí cố định trong ngắn hạn. Ngược lại trong khoảng thời gian vài năm, Ford có thể mở rộng quy mô các nhà máy, xây dựng thêm nhà máy mới, hoặc đóng cửa những nhà máy cũ. Vì vậy, chi phí của những nhà máy này là chi phí biến đổi trong dài hạn. Bởi vì nhiều quyết định bị cố định trong ngắn hạn nhưng biến đổi trong dài hạn, nên đường chi phí dài hạn của doanh nghiệp khác với đường chi phí ngắn hạn. Hình 7 nêu ra một ví dụ. Hình này vẽ ba đường chi phí bình quân ngắn hạn - cho nhà máy nhỏ, vừa và lớn. Nó cũng vẽ đường chi phí bình quân dài hạn. Khi công ty di chuyển dọc theo đường dài hạn, nó đang điều chỉnh quy mô nhà máy theo khối lượng sản xuất. Hình trên cũng cho thấy chi phí ngắn hạn và dài hạn có quan hệ với nhau như thế nào. Đường chi phí bình quân dài hạn dạng chữ U phẳng hơn nhiều so với đường chi phí bình quân ngắn hạn. Ngoài ra, tất cả các đường ngắn hạn đều nằm trên hoặc phía trên đường dài hạn. Những tính chất này phát sinh từ tính linh hoạt ngày càng cao của công ty trong dài hạn. Trong dài hạn, về cơ bản công ty có quyền lựa chọn đường ngắn hạn nào mà nó muốn. Nhưng trong ngắn hạn, nó phải chấp nhận bất kỳ đường ngắn hạn nào nó đã chọn trong quá khứ. Chi phí bình quân ATC ngắn hạn với nhà máy trung bình ATC ngắn hạn với nhà máy ATC ngắn hạn với nhà máy nhỏ lớn Phi hiệu quả theo quy mô Hiệu quả theo quy mô ATC dài hạn 0 Số ô tô mỗi ngày Hiệu quả không đổi theo quy mô Hình 7. Chi phí bình quân trong ngắn hạn và dài hạn. Vì chi phí cố định biến đổi trong dài hạn, nên đường chi phí bình quân trong ngắn hạn và dài hạn khác nhau. Hình 7 là ví dụ về sự thay đổi trong sản xuất làm thay đổi chi phí như thế nào trong các khoảng thời gian khác nhau. Khi công ty Ford muốn tăng sản lượng từ 1.000 lên 1.200 xe mỗi ngày, thì trong ngắn hạn, nó không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thuê thêm công nhân vào làm việc ở những nhà máy quy mô vừa hiện có của nó. Do quy luật sản phẩm cận NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 14
  8. cho họ một công việc hẹp mà họ có thể chuyên sâu. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện khi doanh nghiệp thuê một số lượng lớn công nhân và sản xuất khối lượng lớn sản phẩm. Trong cuốn sách nổi tiếng “Bàn về nguồn gốc và bản chất của cải của các dân tộc”, Adam Smith đã nêu ra một ví dụ về vấn đề này dựa vào chuyến tham quan của ông tại nhà máy sản xuất đinh ghim. Smith rất ấn tượng về sự chuyên môn hóa giữa các công nhân mà ông đã quan sát và hiệu quả kinh tế theo quy mô mà họ đạt được. Ông viết: “Một người rút dây, một người kéo thẳng nó ra, người thứ ba cắt, người thứ tư bấm lỗ, người thứ năm đập vào đầu sợi dây để tạo thành đầu kim, để làm được đầu ghim cần có hai hay ba thao tác; làm ra nó là một công đoạn kỳ diệu, đánh bóng nó lại là một công đoạn khác, thậm chí việc đóng hộp cũng là một công đoạn riêng.” Smith nói rằng do chuyên môn hóa, mỗi công nhân ở nhà máy đinh ghim đã sản xuất được hàng ngàn chiếc ghim mỗi ngày. Ông cho rằng nếu công nhân làm đinh ghim một mình, chứ không phải với một đội ngũ công nhân được chuyên môn hóa, thì “chắc chắn họ không thể làm nổi 20 chiếc mỗi ngày, thậm chí chẳng được chiếc nào.” Nói cách khác, nhờ có chuyên môn hóa, nhà máy ghim lớn có thể đạt năng suất trên một công nhân cao hơn và chi phí bình quân trên mỗi chiếc đinh ghim thấp hơn nhà máy đinh ghim nhỏ. Sự chuyên môn hóa mà Smith quan sát được trong nhà máy sản xuất đinh ghim là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế hiện đại. Ví dụ nếu bạn muốn xây dựng một ngôi nhà, tự bản thân bạn có thể cố gắng làm mọi việc. Nhưng hầu hết mọi người đều thuê một người xây dựng, người sau đó thuê thợ mộc, thợ điện, thợ nước, người sơn cửa và nhiều loại công nhân khác nữa. Những công nhân đó chuyên môn hóa vào từng loại công việc cụ thể và điều này cho phép họ làm việc tốt hơn. Dĩ nhiên, tác dụng của chuyên môn hóa trong việc đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô là một nguyên nhân làm cho các xã hội hiện đại thịnh vượng như hiện nay. Kiểm tra nhanh: Nếu hãng Boeing sản xuất 9 chiếc phản lực mỗi tháng, tổng chi phí dài hạn của nó là 9 triệu đô la mỗi tháng. Nếu nó sản xuất 10 chiếc phản lực mỗi tháng, tổng chi phí dài hạn của nó là 9,5 triệu đô la mỗi tháng. Vậy Boeing đạt hiệu quả kinh tế hay phi hiệu quả kinh tế theo quy mô? KẾT LUẬN Mục đích của chương này là phát triển những công cụ mà chúng ta có thể dùng để nghiên cứu việc các doanh nghiệp đưa ra các quyết định về giá cả và sản xuất như thế nào. Bây giờ bạn đã biết các nhà kinh tế dùng thuật ngữ chi phí để chỉ cái gì và chi phí thay đổi cùng với sản lượng mà mỗi doanh nghiệp sản xuất ra như thế nào. Bảng 13.4 tóm tắt một số định nghĩa mà chúng ta đã gặp để bạn nhớ lại những điều đã học. Tất nhiên, bản thân các đường chi phí không cho chúng ta biết doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định nào. Nhưng chúng là thành tố quan trọng trong quyết định đó, như chúng ta sẽ thấy trong chương sau. Thuật ngữ Định nghĩa Ký hiệu toán học Chi phí hiện Các khoản chi phí đòi hỏi doanh nghiệp chi tiêu ___ tiền Chi phí ẩn Các khoản chi phí không đòi hỏi doanh nghiệp ___ NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 16
  9. Tổng chi phí Total cost Lợi nhuận Profit Chi phí hiện Explicit cost Chi phí ẩn Implicit cost Lợi nhuận kinh tế Economic profit Lợi nhuận kế toán Accounting profit Hàm sản xuất Production function Sản phẩm cận biên Marginal product Sản phẩm cận biên giảm dần Diminishing marginal product Chi phí cố định Fixed cost Chi phí biến đổi Variable cost Chi phí bình quân Average total cost Chi phí cố định bình quân Average fixed cost Chi phí biến đổi bình quân Average variable cost Chi phí cận biên Marginal cost Quy mô hiệu quả Efficient scale Hiệu quả kinh tế theo quy mô Economies of scale Phi hiệu quả kinh tế theo quy mô Diseconomies of scale Hiệu suất không đổi theo quy mô Constant returns to scale NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 5 – Chi phí sản xuất 18